Giải Nghĩa Kinh Thiên-Đạo
ID025963 - Kinh : Giải Nghĩa Kinh Thiên-Đạo 🖶 Print this Kinh
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

  • Phần Giới Thiệu

    Giới thiệu của CHÁNH CÔNG (Hữu Phan Quân LÊ VĂN THOẠI).

    ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
    (Năm Ðạo thứ 66)
    TÒA THÁNH TÂY NINH

    Tôi hân hạnh được đọc bản thảo "GIẢI NGHĨA KINH THIÊN ÐẠO & THẾ ÐẠO" của Hiền Tài Nguyễn văn Hồng. Thật là một kỳ công tra cứu sưu tầm.

    Lời Chí Tôn dạy: "Giáo hóa nhơn sanh cầu Triết lý" và Cổ nhơn có câu: "Ðọc kinh cầu lý".

    Thật vậy, khi giờ cúng tại Tòa Thánh hay tại Thánh Thất, tiếng kinh hòa cùng giọng đờn, nếu chúng ta biết nghĩa lý kinh, luồng tư tưởng phóng ra để dâng lên Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, thì sự cúng mới thấy cảm ứng, đúng với câu của Thất Nương: "Lễ bái thường hành tâm Ðạo khởi".

    Ðây là ít lời thô thiển của tôi, xin giới thiệu cùng Ðạo đồng.

    Tây Ninh, ngày 6 tháng 7 năm Tân Mùi.
    (dl 15-8-1991)
    CHÁNH CÔNG
    (Hữu Phan Quân LÊ VĂN THOẠI)

    Giới Thiệu của Giáo Hữu NGỌC PHÒ THANH.

    ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
    (Lục thập lục niên)
    TÒA THÁNH TÂY NINH

    "Tạo chúc cầu minh, đọc kinh cầu lý".

    Nhờ ánh sáng ngọn đuốc rọi đường dẫn bước đi vững chắc. Ðọc kinh sách cần rõ thấu lý nghĩa cao siêu thấm nhuần trong tâm hồn thanh khiết diệu mầu, khi tụng đọc thể hiện bên ngoài mới tạo được luồng tư tưởng kính tin hiệp hòa từng tiếng kinh nhịp nhàng bên trong dâng lên khi chầu lễ. Ðược vậy là mình đã có biết và cảm, tức nhiên thấu đáo "Chín từng Trời Ðất thông truyền chứng tri". Ðương nhiên, luồng tư tưởng và tâm ta mới tiếp nhận sự ứng của Ơn Trên ban cho, bởi có CẢM mới có ỨNG, sự tu hành mới đoạt thành quả vị, mới hưởng được Bí Pháp huyền vi.

    Quyển "GIẢI NGHĨA KINH THIÊN ÐẠO & THẾ ÐẠO" do Hiền Tài Nguyễn văn Hồng soạn thảo, rất dày công sưu tầm vào những kinh sách Tam Giáo roi truyền, tra cứu điển tích và các bộ Từ điển, có thể giúp ích độc giả hiểu biết thêm về ý nghĩa lời kinh trong khi tụng đọc, hầu chờ đợi sau nầy, quí Chức Sắc Ðại Thiên Phong, bậc đàn anh chị lớn chúng ta bổ cứu, dạy bảo chúng ta thêm những yếu lý cao siêu nhiệm mầu trong khi chúng ta còn quá nghèo nàn về vốn hiểu biết trong Ðạo học.

    Ðôi dòng thô thiển chân thành giới thiệu quyển "GIẢI NGHĨA KINH THIÊN ÐẠO & THẾ ÐẠO" nầy cùng Quí Huynh, Tỷ, Ðệ, Muội, môn sinh của Ðấng Cao Ðài Thượng Ðế.

    Giáo Hữu NGỌC PHÒ THANH

    Lời Tri Ân của Hiền Tài NGUYỄN VĂN HỒNG.

    Thành kính tri ân:

    Quí Chức Sắc: Cửu Trùng Ðài, Hiệp Thiên Ðài và Cơ Quan Phước Thiện,
    Quí Huynh Tỷ và Quí Thân hữu,

    Đã đóng góp nhiều ý kiến quí báu để soạn giả bổ túc và sửa chữa, tạm hoàn thành quyển sách "GIẢI NGHĨA KINH THIÊN ÐẠO & THẾ ÐẠO" nầy.

    Ước mong Quí Chức Sắc, Quí Huynh Tỷ tiếp tục chiếu cố, đóng góp thêm ý kiến để chỉnh đốn quyển sách nầy cho được hoàn hảo, tạo thành một công trình chung, hầu sau nầy hiến dâng bản quyền cho Hội Thánh xử dụng. Ðó là tâm nguyện của soạn giả.

    Nay kính.
    Hiền Tài Nguyễn văn Hồng

    Lời Cầu Nguyện của Hiền Tài NGUYỄN VĂN HỒNG.

    Thành tâm cầu nguyện:

    Ðức Chí Tôn,
    Ðức Phật Mẫu,
    Tam Tông Chơn Giáo,
    Tam Trấn Oai Nghiêm,
    Ðức Quyền Giáo Tông,
    Ðức Phạm Hộ Pháp,
    và Các Ðấng Thiêng Liêng:

    Con xin dâng lên Thân phụ và Thân mẫu của con phần công đức do con lập được trong việc biên soạn quyển "Giải nghĩa Kinh Thiên Ðạo & Thế Ðạo", để cầu cho linh hồn Thân phụ và Thân mẫu con được siêu thăng, an nhàn nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Hiền Tài Nguyễn văn Hồng
    Kính bái

    Thay lời tựa: Trình bày Tổng quát.

    Ðọc suốt các bài Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo của Ðạo Cao Ðài, chúng ta nhận thấy các Bài Kinh nầy có thể được phân làm 2 nhóm theo 2 khuynh hướng Triết lý khác nhau:

    1. Ðóng cửa Ðịa Ngục và mở cửa các từng Trời.

    Ðiển hình là 2 Bài Kinh: Phật Mẫu Chơn Kinh (PMCK) và Kinh Giải Oan (KGO), với các câu:

    Vô Ðịa Ngục, vô quỉ quan,
    Chí Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên.
    (PMCK)

    Ðóng Ðịa Ngục, mở tầng Thiên,
    Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương.
    (KGO)

    Khuynh hướng Triết lý nầy thể hiện rõ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là thời kỳ Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn trong buổi cuối Hạ Nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng Nguơn Tứ Chuyển.

    Ðức Chí Tôn đã ra lịnh đóng cửa Ðịa Ngục, giải thoát tất cả các tội hồn để cho họ chuyển kiếp luân hồi, trả cho xong hết các oan khiên nghiệp chướng, đồng thời lo việc tu hành, để được Ðức Chí Tôn cứu vớt, và Ðức Chí Tôn cũng ra lịnh mở cửa Cực Lạc Thế Giới để rước những Chơn linh có đầy đủ công đức đắc đạo trở về.

    2. Vẫn còn cảnh Ðịa Ngục và Thập Ðiện Diêm Vương.

    Với các hình phạt nặng nề trừng trị các tội hồn đã gây ra nhiều lỗi lầm trong kiếp sanh nơi cõi trần, các hình phạt nặng nề nơi cõi Ðịa Ngục đó là: Nấu dầu, xay, cưa, đốt, giã, bào lạc, rắn ăn thịt, mổ bụng moi tim, móc mắt, ...

    Ðiển hình là 2 Bài Kinh: Kinh Sám Hối (KSH) và Giới Tâm Kinh (GTK), với các câu:

    Con bất hiếu, xay, cưa, đốt, giã,
    Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
    (KSH)

    Nơi Ðịa Ngục gông cùm sẵn đủ,
    Ðể răn loài dâm phụ gian phu.
    (GTK)

    Khuynh hướng Triết lý thứ nhì nầy thể hiện rõ Giáo lý của Phật giáo và của Thiên Chúa giáo thuộc thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, tức là thời kỳ trước khi mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ (tức Ðạo Cao Ðài) vào năm Bính Dần (1926).

    Nhóm nầy gồm 4 Bài Kinh:

    . Kinh Cầu Siêu
    . Kinh Sám Hối
    . Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối
    . Giới Tâm Kinh.

    Bốn bài Kinh nầy do các Ðấng Thiêng Liêng giáng cơ ban cho Chi Minh Lý và Minh Tân, là 2 Chi trong Ngũ Chi Minh Ðạo của Việt Nam, rồi khi mở Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn dạy Hội Thánh đến 2 Chi Minh Lý và Minh Tân, thỉnh 4 bài Kinh ấy về làm Kinh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

    Mặt khác, từ trước đến nay, Hội Thánh chưa có ban hành sách vở hay tài liệu giải thích tất cả các bài Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, mà chỉ có một vài tài liệu giải thích tổng quát một số ít bài Kinh mà thôi, xin kể ra:

    - Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh (có Chú giải) của 2 vị Ðầu Sư: Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, có biên chữ Hán kèm theo và có chú giải các bài Kinh Cúng Tứ Thời.

    - Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giải nghĩa Bài Phật Mẫu Chơn Kinh.

    Lúc đó, chúng tôi ao ước có đặng một quyển sách giải nghĩa tất cả các bài Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, thì việc học Ðạo bước đầu được dễ dàng biết mấy!

    Và bắt đầu từ đó, chúng tôi có ý hướng sưu tầm tất cả tài liệu liên quan, rồi ra công nghiên cứu để thực hiện việc giải thích nầy.

    Nhưng chúng tôi cảm thấy bản thân tài sơ trí thiển, gia công học Ðạo cũng chẳng bao lâu, lại đang ở trong hoàn cảnh khó khăn nhiều mặt, sợ không kham nổi công việc muôn vàn khó khăn nầy, nên đã hết sức cầu khẩn Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu, Ðức Lý Giáo Tông, Ðức Phạm Hộ Pháp và các Ðấng Thiêng liêng hộ trì cho được mẫn huệ trí não, sáng suốt tinh thần, vượt qua các chướng ngại để hoàn thành ý nguyện.

    Chúng tôi lại còn có một điều tin tưởng nữa là cứ mạnh dạn đem hết sức mình ra thực hiện ý định, để các bậc Chức sắc tiền bối, các vị Ðạo tâm thông hiểu Ðạo lý, có một tập sách cụ thể để xem xét, phê phán những chỗ sai lầm, bổ túc những chỗ thiếu sót, bỏ bớt những chỗ dư thừa, thì trong những lần ra mắt tiếp theo, quyển sách sẽ được mỗi lúc một tốt đẹp hơn.

    Chúng tôi ước mong được như thế thì Tín hữu Cao Ðài lần lần sẽ có được một tập sách hữu ích trong việc học Ðạo.

    Chúng tôi cũng tâm nguyện rằng, khi tập sách nầy được sửa chữa khá hoàn hảo thì chúng tôi sẽ hiến dâng cho Hội Thánh ấn hành.

    Một khi đã theo Ðạo, hiểu rõ tôn chỉ, mục đích của nền Ðạo, thì người Tín đồ sẽ không bao giờ xa Ðạo, bỏ Ðạo, hay làm một điều gì trái với luật pháp của Ðạo.

    Do đó, chúng tôi đem hết sức mình ra để biên soạn quyển "GIẢI NGHĨA KINH THIÊN ÐẠO & THẾ ÐẠO" nhằm 2 mục đích sau đây:

    . Thứ nhứt:

    Lời xưa có nói: Ðọc kinh cầu lý. Nếu tụng kinh mà không hiểu được nghĩa lý của lời kinh thì sự bổ ích không nhiều, bởi vì có hiểu được ý kinh thì khi tụng niệm, tâm hồn ta mới phấn khởi, giữ trọn tâm hồn trong lời kinh tiếng kệ, mới có sự cảm ứng với các Ðấng Thiêng Liêng mà ta đang tưởng niệm đến.

    . Thứ nhì:

    Chúng tôi sưu tập được 8 bổn kinh do Hội Thánh ấn hành vào 8 kỳ khác nhau, kể ra :

    * KINH CÚNG TỨ THỜI, in năm 1928, bản quốc ngữ, nhà in Ðức Lưu Phương, Sài gòn.

    * TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH (có chú giải), in năm 1928, có viết kèm thêm chữ Hán, Chữ Nôm, của 2 vị Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt.

    * ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ KINH, không để năm in, gồm chữ Hán và chữ Nôm, không có chữ quốc ngữ, của Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh.

    * KINH THIÊN ÐẠO và THẾ ÐẠO, của Hội Thánh in năm 1936 (Bính Tý), nhà in Ðức Lưu Phương, Sài gòn.

    * KINH LỄ, in bên Pháp năm 1952, khổ nhỏ, nhà xuất bản M. Garnier.

    * KINH THIÊN ÐẠO và THẾ ÐẠO , do Hội Thánh ấn hành vào các năm: 1968, 1974, 1975.

    * Riêng các bài Kinh mà các Ðấng giáng cơ ban cho Minh Lý (Minh Lý Ðạo, Tam Tông Miếu) và Hội Thánh vâng lịnh Ðức Chí Tôn thỉnh về làm Kinh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, thì chúng tôi sưu tầm được quyển "KINH NHỰT TỤNG - KINH SÁM HỐI" của Minh Lý Ðạo Tam Tông Miếu ấn hành năm Quí Sửu (1973).

    Khi so sánh các bản Kinh nầy, chúng tôi nhận thấy có một vài từ ngữ trong một số câu Kinh không đồng nhứt với nhau, do đó gây ra nhiều cuộc tranh luận giữa người nầy với người kia, là chữ nầy đúng, chữ kia sai, và họ đều đưa ra bản Kinh mà họ đang nắm giữ để làm bằng chứng. Nhưng tất cả các cuộc tranh luận ấy đều đi đến chỗ bế tắc, vì bản Kinh nào cũng đều do Hội Thánh ấn hành và đều có Ban Kiểm Duyệt của Hiệp Thiên Ðài ấn ký. Chẳng lẽ những chữ khác biệt ấy đều đúng cả hay sao? Lỗi nầy do sự sắp chữ sai của nhà in hay do ai sửa đổi? Còn bản Kinh gốc đúng nhứt là bản nào? Không một ai biết được.

    Ðể tạm thời giải tỏa vấn đề nầy, chúng tôi đưa ra phần "KHẢO DỊ" liệt kê ra hết những chữ dị biệt giữa các câu kinh trong các bản Kinh, để rộng đường khảo luận của các học giả, và cũng để giúp tài liệu cho việc nghiên cứu sau nầy của Khảo Cứu Vụ của Hội Thánh, sẽ xác nhận chữ nào đúng nhứt, để dùng thống nhứt cho toàn đạo.

    Ðể bổ cứu 2 mục tiêu trên, chúng tôi phụ đính thêm phần chữ Hán cho các bài Kinh Hán Việt sau đây:

    . Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
    . Kinh Phật giáo.
    . Kinh Tiên giáo.
    . Kinh Nho giáo.
    . Bài Dâng Rượu, Dâng Trà.
    . Ngũ Nguyện.
    . Phật Mẫu Chơn Kinh.

    Phần viết chữ Hán kèm theo các bài Kinh Hán Việt kể trên, chúng tôi căn cứ phần chánh vào bản Kinh Hán văn in trong quyển "TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH" xuất bản năm 1928 của 2 vị Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, có sự phối hợp đối chiếu bản Kinh Hán văn in trong quyển "ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ KINH" của Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh, có lẽ in vào năm 1928 hoặc 1929.

    Khi biên soạn quyển "GIẢI NGHĨA KINH THIÊN ÐẠO & THẾ ÐẠO", chúng tôi chỉ mong muốn giúp các Bạn học Ðạo một phương tiện để tìm hiểu ý nghĩa của các câu Kinh căn cứ theo từ ngữ, trong cái học Hạ Thừa, còn phần ý nghĩa siêu việt của câu Kinh, vượt khỏi văn tự mà các Ðấng muốn đặt vào đó, thuộc về phần học Thượng Thừa, chúng tôi chưa đủ trình độ đạt tới.

    Chúng tôi mong mỏi được quí Chức sắc, các bậc Ðạo tâm, chỉ giáo thêm cho chúng tôi, thì đó là một ơn huệ lớn lao dành cho soạn giả vậy.

    Nay Kính.
    Soạn giả: Hiền Tài Nguyễn văn Hồng
  • Những chữ viết tắt

    Những chữ viết tắt (sắp theo thứ tự A B C)

    B BDH
    BDR
    BDT
    BÐNÐ
    BKNKSH
    BXTCÐPTTT
    BQÐ
    Bài Dâng Hoa.
    Bài Dâng Rượu.
    Bài Dâng Trà.
    Bát Ðạo Nghị Ðịnh.
    Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối.
    Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần.
    Bát Quái Ðài.
    C CGPCT
    CKTG
    CKVT
    CKVV
    CLTG
    CTÐ
    CQPT
    Chú Giải Pháp Chánh Truyền.
    Càn Khôn Thế giới.
    Càn Khôn Vũ Trụ.
    Càn Khôn Vạn vật.
    Cực Lạc Thế giới.
    Cửu Trùng Ðài.
    Cơ Quan Phước Thiện.
    D DLCK
    DTC
    Di Lạc Chơn Kinh.
    Diêu Trì Cung.
    Ð ÐÐTKPÐ
    ÐLMD
    Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
    Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938).
    G GTK Giới Tâm Kinh.
    H HTÐ Hiệp Thiên Ðài.
    K KCBCTBCHÐQL
    KCHKHH
    KCK
    KCS
    KCTPÐQL
    KÐLC
    KÐ1C
    KÐ2C
    KÐ3C
    KÐ4C
    KÐ5C
    KÐ6C
    KÐ7C
    KÐ8C
    KÐ9C
    KÐRÐ
    KÐT
    KGO
    KHH
    KHP
    KK
    KKĂCR
    KKCÐTTT
    KKÐCR
    KKÐN
    KKTD
    KKV
    KNH
    KNHTÐ
    KSH
    KTCMÐQL
    KTÐTÐ
    KTHÐMP
    KTKCQV
    KTKTQV
    KTKVQL
    KTKVTH
    KTL
    KTP
    KTT
    KTTg
    KVĂC
    KVH
    KXH
    Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Ðã Qui Liễu.
    Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối.
    Kinh Cứu Khổ.
    Kinh Cầu Siêu.
    Kinh Cầu Tổ Phụ Ðã Qui Liễu.
    Kinh Ðưa Linh Cửu.
    Kinh Ðệ Nhứt cửu.
    Kinh Ðệ Nhị cửu.
    Kinh Ðệ Tam cửu.
    Kinh Ðệ Tứ cửu.
    Kinh Ðệ Ngũ cửu.
    Kinh Ðệ Lục cửu.
    Kinh Ðệ Thất cửu.
    Kinh Ðệ Bát cửu.
    Kinh Ðệ Cửu cửu.
    Kinh Ði Ra Ðường.
    Kinh Ðại Tường.
    Kinh Giải Oan.
    Kinh Hạ Huyệt.
    Kinh Hôn Phối.
    Khai Kinh.
    Kinh Khi Ăn Cơm Rồi.
    Kinh Khai Cửu Ðại Tường Tiểu Tường.
    Kinh Khi Ðã Chết Rồi.
    Kinh Khi Ði Ngủ.
    Kinh Khi Thức Dậy.
    Kinh Khi Về.
    Kinh Nhập Hội.
    Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
    Kinh Sám Hối.
    Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu.
    Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo.
    Kinh Tụng Huynh Ðệ Mãn Phần.
    Kinh Tụng Khi Chồng Qui Vị.
    Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị.
    Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu.
    Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà.
    Kinh Tẫn Liệm.
    Kinh Thuyết Pháp.
    Kinh Tắm Thánh.
    Kinh Tiểu Tường.
    Kinh Vào Ăn Cơm.
    Kinh Vào Học.
    Kinh Xuất Hội.
    N NG
    NH
    NN
    NTTP
    Nho Giáo, Kinh Nho Giáo.
    Niệm Hương.
    Ngũ Nguyện.
    Nữ Trung Tùng Phận.
    P PCT
    PG
    PMCK
    Pháp Chánh Truyền.
    Phật Giáo (Kinh Phật Giáo).
    Phật Mẫu Chơn Kinh.
    T Td
    TÐ.ÐPHP
    TG
    TKPÐ
    TL
    TLHS
    TNHT
    TNHT.II.36
    TTCÐDTKM
    TTTN
    Thí dụ.
    Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.
    Tiên Giáo, Kinh Tiên Giáo.
    Tam Kỳ Phổ Ðộ.
    Thiêng liêng.
    Thiêng Liêng Hằng Sống.
    Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
    Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển II, trang 36.
    Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu.
    Tòa Thánh Tây Ninh.
    V VSTC Vãng Sanh Thần Chú.
  • Kinh Cúng Tứ Thời: Niệm Hương

    1. Giải nghĩa Kinh Niệm Hương.

    Niệm Hương
     ♫ (Giọng Nam ai)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Ðạo gốc bởi lòng thành tín hiệp. Người theo đạo, cốt yếu phải có một tấm lòng thành thật và một đức tin mạnh mẽ, có dủ 2 yếu tố ấy hợp lại mới vững bước trên đường đạo.
    2. Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra. Tư tưởng nơi tâm nương theo khói nhang truyền lên Trời cao.
    3. Mùi hương lư ngọc bay xa, Tư tưởng, ý nghĩ trong sạch tốt đẹp phát ra từ cái Tâm quí báu bay lên truyền đến các cõi Trời xa.
    4. Kính thành cầu nguyện Tiên Gia chứng lòng Tấm lòng tôn kính và thành thật cầu nguyện thì Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ sẽ chứng cho mình.
    5.
    6.
    Xin Thần Thánh ruổi dong cỡi hạc,
    Xuống phàm trần vội gác xe Tiên.
    Xin các Ðấng Thần Thánh cỡi hạc hoặc đi trên chiếc xe Tiên dong ruổi xuống cõi thế gian.
    7. Ngày nay đệ tử khẩn nguyền, Ngày nay, chúng con là học trò của Thầy, xin tha thiết cầu nguyện.
    8. Chín từng Trời, Ðất thông truyền chứng tri. Lời khẩn nguyền của đệ tử sẽ được truyền đi suốt đến 9 từng Trời và đến các quả Ðịa cầu để các Ðấng thiêng liêng chứng thực biết rõ.
    9. Lòng sở vọng gắng ghi đảo cáo, Ðiều quan trọng mà lòng mình hằng mong ước, cố gắng ghi nhớ để cúng tế cầu nguyện và tấu trình lên các Ðấng Thiêng liêng.
    10. Nhờ Ơn Trên bổ báo phước lành. Nhờ ơn Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và các Ðấng thiêng liêng giúp đỡ báo đáp lại và ban cho phước lành.

    (Lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy: Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát)

    Câu 1: Ðạo gốc bởi lòng thành tín hiệp.

    GIẢI NGHĨA

    Ðạo: "Ðạo là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu vị. Ðạo là đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Ðạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm. Ðạo, nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó rồi mới học các nghĩa huyền bí khác cho đích xác đặng." (TNHT.II.3). Do đó, nghĩa thông thường của Ðạo là tôn giáo.

    Thành: Thành thật.

    Tín: Tin, tin có Thượng Ðế, tin có Thần, Thánh, Tiên, Phật, tin mỗi người đều có linh hồn bất tiêu bất diệt, tin linh hồn là điểm Linh quang do Thượng Ðế ban cho mỗi người để tạo nên sự sống và gìn giữ sự sống.

    Tín chính là đức tin rất cần thiết cho người theo Ðạo.

    Hiệp: Hợp lại.

    Lòng thành: Cái tâm chơn thật.

    Câu 1: Người theo đạo, cốt yếu phải có một tấm lòng thành thật và một đức tin mạnh mẽ, có dủ 2 yếu tố ấy hợp lại mới vững bước trên đường đạo.

    Câu 2: Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra.

    GIẢI NGHĨA

    Lòng: Cái tâm của con người.

    Nương: Dựa vào.

    Câu 2: Tư tưởng nơi tâm nương theo khói nhang truyền lên Trời cao.

    Câu 3: Mùi hương lư ngọc bay xa.

    GIẢI NGHĨA

    Mùi hương: Mùi thơm của khói nhang tỏa ra, ý nói những tư tưởng hay ý nghĩ trong sạch tốt đẹp của cái Tâm phát ra.

    Lư: Dụng cụ đặt trên bàn thờ dùng để đốt trầm hay để đốt nhang cắm vào; đốt trầm thì gọi là Lư trầm, đốt nhang thì gọi là Lư hương.

    Ngọc: Loài đá quí, chỉ sự quí báu.

    Lư ngọc: Cái lư bằng ngọc, chỉ cái Tâm quí báu của con người.

    Câu 3: Tư tưởng, ý nghĩ trong sạch tốt đẹp phát ra từ cái Tâm quí báu bay lên truyền đến các cõi Trời xa.

    Câu 4: Kính thành cầu nguyện Tiên Gia chứng lòng.

    GIẢI NGHĨA

    Kính: Kính trọng.

    Thành: Thành thật.

    Cầu: Xin.

    Nguyện: Mong ước. Cầu nguyện là cầu xin các Ðấng thiêng liêng ban cho điều mà mình mong ước.

    Tiên Gia: Tiên là ông Tiên, Gia là Cha. Tiên Gia là Ông Cha Tiên, đó là Ðại Từ Phụ, Ðấng Cha chung thiêng liêng của toàn cả vạn linh sanh chúng trong CKVT, mà ta thường gọi là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

    Câu 4: Tấm lòng tôn kính và thành thật cầu nguyện thì Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ sẽ chứng cho mình.

    Câu 5-6: Xin Thần Thánh ruổi dong cỡi hạc, Xuống phàm trần vội gác xe Tiên.

    GIẢI NGHĨA

    Ruổi dong: Ði thẳng một mạch cho mau tới nơi.

    Hạc: Giống chim lớn, chân cao, cổ dài, lông trắng, bay nhanh, dáng thanh nhã, sống đến ngàn năm, thường được các vị Tiên dùng để cỡi bay đi.

    Phàm: Tầm thường thấp kém.

    Trần: Bụi bặm. Phàm trần là chỉ cõi thế gian, cõi đời, cõi của nhơn loại đang sống, vì cõi nầy thấp kém có nhiều bụi bặm ô trược.

    Gác: Ðặt ngang lên trên.

    Xe Tiên: Chiếc xe mầu nhiệm nơi cõi thiêng liêng, cũng gọi là Xe Như Ý, dùng để chở các vị Tiên đi lại. Người ngồi trên xe muốn đi đến đâu thì chiếc xe Tiên hay xe Như Ý chở ngay đến đó tức khắc.

    Gác xe Tiên: Ngồi lên chiếc xe Tiên.

    Câu 5-6: Xin các Ðấng Thần Thánh cỡi hạc hoặc đi trên chiếc xe Tiên dong ruổi xuống cõi thế gian.

    Câu 7: Ngày nay đệ tử khẩn nguyền.

    GIẢI NGHĨA

    Ðệ tử: Học trò. Học trò đối với Thầy thì xưng mình là đệ tử. Ðức Chí Tôn tự xưng là Thầy, và gọi các con đang học đạo là môn đệ hay đệ tử.

    Khẩn: Tha thiết.

    Nguyền: Mong mỏi cầu xin.

    Khẩn nguyền: Tha thiết cầu xin điều mình mong ước.

    Câu 7: Ngày nay, chúng con là học trò của Thầy, xin tha thiết cầu nguyện.

    Câu 8: Chín từng Trời, Ðất thông truyền chứng tri.

    Chín từng Trời: Chữ Hán gọi là Cửu Trùng Thiên. Chín từng Trời nầy có tên theo đúng 9 bài Kinh Tuần Cửu, kể từ thấp dần lên cao là:

    Từng Trời thứ nhứt có Vườn Ngạn Uyển.
    Từng Trời thứ nhì có Vườn Ðào Tiên của Phật Mẫu.
    Từng Trời thứ ba gọi là Thanh Thiên.
    Từng Trời thứ tư gọi là Huỳnh Thiên.
    Từng Trời thứ năm gọi là Xích Thiên.
    Từng Trời thứ sáu gọi là Kim Thiên.
    Từng Trời thứ bảy gọi là Hạo Nhiên Thiên.
    Từng Trời thứ tám gọi là Phi Tưởng Thiên.
    Từng Trời thứ chín gọi là Tạo Hóa Thiên.

    CHÚ Ý:

    Có một số vị cho rằng: Vườn Ngạn Uyển và Vườn Ðào Tiên không ở trên 2 từng Trời thứ nhứt và thứ nhì, mà từng Trời thứ nhứt là Thanh Thiên trong bài Kinh Ðệ Tam Cửu; từng Trời thứ hai là Huỳnh Thiên, vv..., từng Trời thứ 7 là Tạo Hóa Thiên, từng Trời thứ 8 là Hư Vô Thiên, bỏ từng Trời Hội Nguơn Thiên, và từng Trời thứ 9 là Hỗn Nguơn Thiên, và gọi đó là Cửu Trùng Thiên.

    Ðiều nầy hoàn toàn không đúng, vì 3 lý do sau đây:

    1. Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giải nghĩa bài Kinh Phật Mẫu tại Cửu Long Ðài ngày 15-8-Ðinh Hợi (1947) có nói rõ rằng: "Từng Trời thứ 9 gọi là Cung Tạo Hóa Thiên, có vị cầm quyền tạo đoan gọi là Thiên Hậu." (TÐ.ÐPHP.Q1. 64)

    2. Bài Thài hiến lễ Ðức Phật Mẫu trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có 4 câu khoán thủ là: Cửu Thiên Huyền Nữ, nghĩa là: Cửu là thứ 9, Thiên là từng Trời, Huyền là huyền diệu, Nữ là người phụ nữ. Cửu Thiên Huyền Nữ là người phụ nữ huyền diệu ở từng Trời thứ 9. Ðó là Ðức Phật Mẫu. Ðiều nầy một lần nữa chứng tỏ Tạo Hóa Thiên là từng Trời thứ 9.

    3. Nghi thức Tang lễ trong Ðạo Cao Ðài đối với các Chức sắc Ðại Thiên Phong hàng Tiên vị như Ðầu Sư, Thập nhị Thời Quân đổ lên, khi đăng Tiên, thể xác được liệm vào liên đài. "Liên đài được quàn tại biệt điện của mỗi vị một đêm, Báo Ân Từ một đêm, Ðền Thánh một đêm, và Cửu Trùng Thiên một đêm. Hội Thánh sẽ cử hành Lễ Tiểu Tường, Ðại Tường, kỷ niệm hằng năm và xây bửu tháp. Không có làm Tuần Cửu và hành pháp độ thăng." (Trích trong quyển Quan Hôn Tang Lễ năm 1976 của Hội Thánh).

    Chúng ta lưu ý trong nghi thức tế lễ nầy, liên đài được đặt trên Cửu Trùng Thiên tại Ðại Ðồng Xã, không làm Tuần Cửu, chỉ làm Tiểu Tường, Ðại Tường, không hành pháp Ðộ Thăng.

    Ðiều đó cho chúng ta hiểu rằng: Chức sắc hàng Tiên vị đổ lên có đủ công đức để vượt lên khỏi Cửu Trùng Thiên (mới được ngồi trên Cửu Trùng Thiên) mà không cần nhờ làm Tuần Cửu hay Phép Ðộ thăng. Hội Thánh chỉ làm lễ Tiểu Tường, mà bài Kinh Tiểu Tường là để đưa chơn hồn lên từng Trời Hư Vô Thiên. Vậy Hư Vô Thiên phải ở bên trên Cửu Trùng Thiên, chớ không thể ở trong Cửu Trùng Thiên được, và đó chính là từng Trời thứ 10.

    Qua sự trình bày 3 lý do vừa kể trên, chúng ta đi đến kết luận là: Tạo Hóa Thiên là từng Trời thứ 9 nằm trong Cửu Trùng Thiên, và Hư Vô Thiên là từng Trời thứ 10 nằm bên trên Cửu Trùng Thiên. Theo đó thì Hội Nguơn Thiên là từng Trời thứ 11, và Hỗn Nguơn Thiên là từng Trời thứ 12.

    Ba từng Trời bên trên (Hư Vô Thiên, Hội Nguơn Thiên, Hỗn Nguơn Thiên) hợp với 9 từng Trời (Cửu Trùng Thiên) bên dưới tạo thành 12 từng Trời, gọi là Thập nhị Thiên.

    Trở lại giải thích các từ ngữ trong Câu kinh 8:

    Ðất: Chỉ các quả Ðịa cầu, ý nói Thất thập nhị Ðịa (72 Ðịa cầu).

    Thông: Suốt tới khắp nơi.

    Thông truyền: Truyền đi khắp nơi.

    Chứng: Nhận thực.

    Tri: Biết. Chứng tri là nhận thực có biết rõ.

    Câu 8: Lời khẩn nguyền của đệ tử sẽ được truyền đi suốt đến 9 từng Trời và đến các quả Ðịa cầu để các Ðấng thiêng liêng chứng thực biết rõ.

    Câu 9: Lòng sở vọng gắng ghi đảo cáo,

    GIẢI NGHĨA

    Sở: Ðiều quan trọng của mình.

    Vọng: Mong ước. Sở vọng là điều quan trọng của mình hằng mong ước.

    Gắng ghi: Cố gắng ghi nhớ.

    Ðảo: Cúng tế cầu nguyện.

    Cáo: Tấu trình, báo cáo. Ðảo cáo là cúng tế cầu nguyện và tấu trình các việc

    Câu 9: Ðiều quan trọng mà lòng mình hằng mong ước, cố gắng ghi nhớ để cúng tế cầu nguyện và tấu trình lên các Ðấng Thiêng liêng.

    Câu 10: Nhờ Ơn Trên bổ báo phước lành.

    GIẢI NGHĨA

    Ơn Trên: Ơn huệ của Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và các Ðấng thiêng liêng.

    Bổ: Giúp đỡ, thêm vô cho đủ.

    Báo: Ðáp lại. Bổ báo là giúp đỡ báo đáp lại.

    Câu 10: Nhờ ơn Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và các Ðấng thiêng liêng giúp đỡ báo đáp lại và ban cho phước lành.

    Câu Chú của Thầy: Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát.

    GIẢI NGHĨA

    Câu Chú: Câu niệm có tánh cách huyền bí của một Ðấng Thiêng Liêng đặt ra để hộ trì các môn đệ trên bước đường tu.

    Thầy: Trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế giáng cơ dạy đạo, xưng mình là Thầy, gọi các con đang học đạo là môn đệ. Ðức Chí Tôn dạy đạo đức cho nhơn sanh như là Thầy dạy trò, gần gũi thân mật, biểu lộ lòng thương yêu của Chí Tôn đối với chúng sanh thật vô cùng tận.

    Câu Chú của Thầy tức là của Ðức Chí Tôn có 12 chữ:

    Nam- Cao- Ðài Tiên- Ông Ðại Bồ- Tát Ma- Ha- Tát
    1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

    Nam-mô: do phiên âm từ tiếng Pali "Namô" hoặc từ tiếng Phạn "Namah", dịch nghĩa là: Qui mệnh, kỉnh lễ, cúi đầu làm lễ. Từ ngữ Nam-mô thường được dùng làm chữ khởi đầu một câu cầu nguyện.

    Cao Ðài: Cái đài cao, dùng làm nơi ngự của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế khi có Ðại hội triều đình của Ðức Chí Tôn tại Linh Tiêu Ðiện Ngọc Hư Cung.

    Tiên Ông: Ông Tiên, vị Tiên.

    Ðại: Lớn.

    Bồ-Tát: Nói đầy đủ là Bồ-Ðề-Tát-Ðóa, tiếng Phạn là Bodhisattva, nghĩa là người đã tự giác được bản tánh và có nhiệm vụ phổ độ chúng sanh.

    Ma-Ha-Tát: Nói đầy đủ là Ma-Ha-Tát-Ðóa, tiếng Phạn là Mahasattva, nghĩa là Ðại chúng sanh, tức là người có dũng tâm muốn làm việc lớn.

    Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát là vị Bồ Tát lớn, ở phẩm bực cao trọng, xứng đáng đứng hàng Phật vị, nhưng vì còn nhiệm vụ cứu độ chúng sanh nên còn mang danh Bồ Tát.

    Câu Chú của Thầy đặc biệt có 12 chữ là vì con "số 12 là số riêng của Thầy".

    Câu Chú nầy có ý nghĩa bao hàm Tam giáo:

    CAO ÐÀI: tượng trưng Nho giáo.

    TIÊN ÔNG: tượng trưng Tiên giáo (Ðạo giáo).

    ÐẠI BỒ-TÁT MA-HA-TÁT: tượng trưng Phật giáo.

    Do đó, Câu Chú của Thầy (Ðức Chí Tôn) có ý nghĩa Tam giáo đồng tông, ngày nay qui nguyên Ðại Ðạo. Ðại Ðạo đó chính là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn sáng lập và làm Giáo Chủ.

    2. Giải nghĩa các từ ngữ tổng quát.

    Kinh: Bài văn, bài thơ do các Ðấng Phật, Tiên, Thánh viết ra để xưng tụng công đức, mô tả nhiệm vụ của các Ðấng Thiêng Liêng, hoặc để dạy đạo đức cho nhơn sanh và để cầu nguyện.

    Tân Kinh: Kinh mới (Tân là mới), tức là Kinh thuộc Tam Kỳ Phổ Ðộ. Cũng như Tân Luật là Luật mới về tu hành của TKPÐ. Còn Kinh và Luật của thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ được gọi là Cựu Kinh, Cựu Luật. (Cựu là cũ, trái với Tân là mới).

    Vậy, Tân Kinh là Kinh của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là Kinh của Ðạo Cao Ðài. Kinh nầy gồm: Kinh Thiên Ðạo và Kinh Thế Ðạo.

    Thiên Ðạo: Ðạo Trời, tức là con đường tu với mục đích cuối cùng là giải thoát khỏi luân hồi, để linh hồn trở về hiệp nhứt với Trời, tức là hiệp với Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

    Con đường tu Thiên Ðạo dành cho bực Thượng thừa quyết chí tu hành, phế đời hành Ðạo, nghiêm giữ giới luật tu hành, thực hành Tam Lập: Lập Ðức, Lập Công, Lập Ngôn.

    Trước khi bước vào Thiên Ðạo, người tu phải trải qua bực Hạ thừa tu phần Nhơn Ðạo.

    Nhơn Ðạo là Ðạo làm Người, là đường lối dạy con người phải làm tròn bổn phận của một người đối với gia đình, gồm cha mẹ, anh chị em, vợ chồng con cái; đối với thân tộc, bạn bè; và sau cùng là bổn phận đối với quốc gia xã hội.

    Thế Ðạo: Ðạo ở đời (Thế là đời), tức là đường lối dạy con người bổn phận làm một người ở đời thế nào cho hợp với Ðạo lý, lẽ phải. Ðó chính là Nhơn Ðạo.

    Thế Ðạo, tức là Nhơn Ðạo, ví như nền móng; Thiên Ðạo ví như nhà lầu. Không đào móng đúc nền cho vững chắc thì cất nhà lầu lên ắt sụp đổ. Cho nên, phải tu xong Nhơn Ðạo thì mới có thể tiến lên tu Thiên Ðạo được.

    Cúng: Ðốt nhang, dâng lễ vật, cầu nguyện và lạy để tỏ lòng thành kính.

    Tứ Thời: 4 điểm thời gian trong một ngày vào các giờ: 0 giờ (tức 12 giờ khuya) thuộc giờ Tý, 6 giờ sáng thuộc giờ Mẹo, 12 giờ trưa thuộc giờ Ngọ, và 18 giờ (tức 6 giờ chiều) thuộc giờ Dậu.

    Nghi lễ của Ðạo Cao Ðài dạy các tín đồ cúng Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng liêng vào Tứ thời kể trên, bởi vì vào 4 thời điểm nầy, khí Dương và khí Âm trong CKVT có sự biến đổi tương đối đặc biệt:

    Lúc 0 giờ, thời Tý: Khí Âm cực thạnh, khí Dương khởi sanh.

    Lúc 6 giờ và 18 giờ, thời Mẹo và thời Dậu: Hai khí Dương và Âm giao hòa cân bằng nhau.

    Lúc 12 giờ trưa, thời Ngọ: Khí Dương cực thạnh, khí Âm khởi sanh.

    Thời Tý và thời Ngọ: Cúng Rượu (Rượu trắng).

    Thời Mẹo và thời Dậu: Cúng nước Âm Dương, tức là cúng nước trà và nước trắng thiên nhiên.

    Kinh Cúng Tứ Thời: là các bài kinh để tụng cúng Ðức Chí Tôn và 3 Ðấng Giáo chủ Tam giáo vào 4 thời trong một ngày.

    Kinh cúng Ðức Chí Tôn vào Tứ thời tại Tòa Thánh hay tại Thánh Thất gồm 8 bài kinh kể ra sau đây:

    Niệm Hương.
    Khai Kinh.
    Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
    Kinh Phật giáo.
    Kinh Tiên giáo.
    Kinh Nho giáo (Thánh giáo).
    Bài Dâng Hoa, Dâng Rượu, Dâng Trà.
    Ngũ Nguyện.

    Kinh cúng Ðức Phật Mẫu vào Tứ thời tại Báo Ân Từ hay tại Ðiện Thờ Phật Mẫu gồm 6 Bài Kinh, kể ra sau đây:

    Niệm Hương.
    Khai Kinh.
    Phật Mẫu Chơn Kinh.
    Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu.
    Bài Dâng Rượu hoặc Dâng Trà.
    Ngũ Nguyện.

    Kinh Cúng Tứ Thời còn được gọi là Kinh Nhựt Tụng, (Nhựt là mỗi ngày). Kinh Nhựt Tụng là những bài kinh dùng để tụng mỗi ngày.

    Những bài kinh thường được tụng theo 2 giọng: Nam xuân và Nam ai. Chỉ có 3 Bài Dâng Tam Bửu là thài theo giọng Ðảo Ngũ Cung.

    Giọng Nam ai: là giọng ngâm theo điệu cổ nhạc Nam ai, có tính cách buồn bã bi ai, nên nhạc đi theo nhịp chậm rãi.

    Giọng Nam xuân: giọng ngâm theo điệu cổ nhạc Nam xuân, có tính cách vui tươi, nên nhạc đi theo nhịp nhanh.

    Niệm Hương: Niệm là tưởng nghĩ tới, hương là mùi thơm, chỉ cây nhang đang đốt cháy tỏa mùi thơm. Niệm Hương là đốt nhang và tưởng niệm các Ðấng thiêng liêng.

    3. Nguồn gốc bài Niệm Hương.

    Kinh Niệm Hương có nguồn gốc là bài Kinh chữ Hán "Phần Hương Chú" trích trong Kinh Cảm Ứng của Tiên giáo.

    Vào năm Ất Sửu (1925), Ðức Nam Cực Chưởng Giáo giáng cơ tại Minh Lý (Tam Tông Miếu) dịch bài Phần Hương Chú ra chữ Nôm ban cho Chi nầy cho dễ hiểu.

    Khi mới khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ðức Chí Tôn giáng dạy Ngũ Chi Minh Ðạo (Minh Sư, Minh Lý, Minh Tân, Minh Thiện, Minh Ðường) dâng Kinh cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Do đó, Hội Thánh cử phái đoàn đại diện gồm 4 vị:

    Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung,
    Thượng Giáo Sư Vương quan Kỳ,
    Ðức Phạm Hộ Pháp,
    Ðức Cao Thượng Phẩm,

    đến Chi Minh Lý thỉnh 6 Bài Kinh:

    Niệm Hương.
    Khai Kinh.
    Kinh Sám Hối
    Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối.
    Kinh Cầu Siêu.
    Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần.

    về làm Kinh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

    Sau đây, xin chép lại bài Phần Hương Chú:

    PHẦN HƯƠNG CHÚ 焚 香 咒
    Ðạo do tâm hiệp 道 由 心 合
    Tâm giả hương truyền. 心 假 香 傳
    Hương phần ngọc lư 香 焚 玉 爐
    Tâm chú Tiên nguyện. 心 注 仙 願
    Chơn linh hạ giáng. 眞 靈 下 降
    Tiên bội lâm hiên. 仙 珮 鄰 軒
    Kim thần quan cáo 今 臣 關 告
    Kính đạt Cửu Thiên. 逕 達 九 天
    Sở khải sở nguyện 所 啟 所 願
    Hàm tứ như nghiên. (ngôn) 咸 賜 如 言

    Dịch nghĩa:

    Bài Cầu Nguyện đốt nhang.
    - Ðạo là do cái Tâm hợp lại,
    - Cái Tâm mượn mùi thơm của nhang để truyền đi.
    - Ðốt nhang tỏa mùi thơm nơi cái lư quí báu,
    - Cái Tâm hướng đến các vị Tiên để cầu nguyện.
    - Chơn linh của các Ðấng giáng xuống,
    - Các vị Tiên ngồi trên xe đi đến.
    - Ngày nay kẻ bề tôi cần tấu trình.
    - Mau chóng thẳng đến Chín từng Trời.
    - Ðiều quan trọng mà mình muốn tỏ bày và mong ước,
    - Ðều ban cho ơn huệ như lời cầu khẩn.

    Bài Phần Hương Chú của Tiên giáo để cúng các vị Tiên, được Ðức Nam Cực Chưởng Giáo diễn nôm một cách thoát ý tài tình, thành bài kinh cúng Ba Ðấng Giáo chủ Tam giáo nơi Tam Tông Miếu của Minh Lý Ðạo, và cuối cùng được thỉnh về làm kinh của Ðạo Cao Ðài cúng Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và Ba Ðấng Giáo chủ Tam giáo.

    Do đó, ý nghĩa của bài kinh nầy được thăng hoa đến tột đỉnh vì được dùng để cúng Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

  • Kinh Cúng Tứ Thời: Khai Kinh

    1. Giải nghĩa bài Khai Kinh.

    Khai Kinh
     ♫ (Giọng Nam ai)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Biển trần khổ vơi vơi trời nước, Những nỗi đau khổ của con người nơi cõi trần thì nhiều như nước biển mênh mông, chỉ thấy trời và nước.
    2. Ánh thái dương giọi trước phương đông. Ánh sáng mặt trời chiếu ra từ phương Ðông.
    3. Tổ Sư Thái Thượng Ðức Ông, Ðức Thái Thượng Ðạo Quân sáng lập Ðạo Tiên và làm Tổ Sư của Ðạo Tiên.
    4. Ra tay dẫn độ dày công giúp đời. Rất dày công trong việc dẫn dắt và cứu giúp người đời.
    5. Trong Tam Giáo có lời khuyến dạy, Trong giáo lý của Ba nền tôn giáo lớn ở Á Ðông có nhiều lời khuyên răn dạy dỗ.
    6. Gốc bởi lòng làm phải làm lành. Tam giáo dạy lấy Tâm làm gốc, dạy làm điều phải, tránh điều quấy, dạy làm điều thiện, tránh điều ác.
    7. Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành, Ðức Thánh Khổng tử dạy về đạo Trung Dung rất rành rẽ.
    8. Từ bi Phật dặn lòng thành lòng nhơn. Ðức Phật căn dặn phải có lòng từ bi, lòng thành thật, và lòng thương yêu khắp chúng sanh.
    9. Phép Tiên đạo tu chơn dưỡng tánh, Cái Tâm pháp tu luyện của đạo Tiên dạy về Tu chơn và Dưỡng Tánh.
    10. Một cội sanh ba nhánh in nhau. Tam giáo đều có cùng một gốc mà ra, gốc đó là Ðức Chí Tôn, mà ngày nay thời Tam Kỳ Phổ Độ gọi là Ðấng Cao Ðài.
    11. Làm người rõ thấu lý sâu, Làm một con người nơi cõi trần cần phải tìm tòi học hỏi để biết rõ cái Chơn lý huyền diệu của Trời Ðất.
    12. Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh. Cần phải sửa đổi cái Tâm cho trong sạch để tụng kinh và cầu nguyện thì mới được sự cảm ứng của các Ðấng thiêng liêng.

    Giải nghĩa bài Khai Kinh

    Khai Kinh: Bài Kinh để tụng mở đầu trước khi tụng các bài Kinh khác như: Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế, Kinh Phật giáo, Kinh Tiên giáo, Kinh Nho giáo, Kinh Phật Mẫu.

    Câu 1: Biển trần khổ vơi vơi trời nước.

    GIẢI NGHĨA

    Biển trần khổ: Những nỗi đau khổ của con người nơi cõi trần nhiều như biển. Ðức Phật Thích Ca nói, con người có Tứ khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Ngoài ra con người còn chịu biết bao khổ sở trong việc đua chen danh lợi, vật lộn với cuộc sống. Do đó, Ðức Phật nói, nước mắt của chúng sanh nhiều hơn nước 4 biển.

    Vơi vơi: Bát ngát mênh mông.

    Câu 1: Những nỗi đau khổ của con người nơi cõi trần thì nhiều như nước biển mênh mông, chỉ thấy trời và nước.

    Câu 2: Ánh thái dương giọi trước phương đông.

    GIẢI NGHĨA

    Thái dương: Mặt trời.

    Ánh Thái dương: Ánh sáng mặt trời, nguồn sống của nhơn loại và sinh vật.

    Giọi: Chiếu, rọi.

    Câu 2: Ánh sáng mặt trời chiếu ra từ phương Ðông.

    Từ phương Ðông, mặt trời từ từ lố dạng, phá tan màn đêm đen tối đang bao phủ địa cầu, vạn vật thức tỉnh, bừng lên sự sống. Ngụ ý là: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mở ra tại một nước ở phía đông, ý nói nước Việt Nam, để cứu vớt nhơn loại thoát qua biển khổ.

    Câu 3: Tổ Sư Thái Thượng Ðức Ông.

    GIẢI NGHĨA

    Tổ Sư: Người sáng lập ra một tôn giáo và làm thầy trong tôn giáo đó.

    Thái Thượng Ðức Ông: Ðức Thái Thượng Ðạo Quân, Giáo chủ Tiên giáo.

    Câu 3: Ðức Thái Thượng Ðạo Quân sáng lập Ðạo Tiên và làm Tổ Sư của Ðạo Tiên.

    Câu 4: Ra tay dẫn độ dày công giúp đời.

    GIẢI NGHĨA

    Ra tay: Ðem sức ra làm việc.

    Dẫn độ: Dẫn dắt và cứu giúp.

    Dày công: Có nhiều công lớn.

    Câu 4: Rất dày công trong việc dẫn dắt và cứu giúp người đời.

    Câu 5: Trong Tam giáo có lời khuyến dạy.

    GIẢI NGHĨA

    Tam giáo: 3 tôn giáo lớn ở Á Ðông: Phật giáo (Thích giáo), Lão giáo (Ðạo giáo), Nho giáo (Khổng giáo). Thường nói Tam giáo là: Phật, Lão, Nho; hay Nho, Thích, Ðạo.

    Câu 5: Trong giáo lý của Ba nền tôn giáo lớn ở Á Ðông có nhiều lời khuyên răn dạy dỗ.

    Câu 6: Gốc bởi lòng làm phải làm lành.

    GIẢI NGHĨA

    Gốc bởi lòng: Cái căn bản là do Tâm của mỗi người. Ba nền tôn giáo lớn Nho Thích Ðạo đều lấy TÂM làm gốc:

    Phật giáo dạy Minh Tâm kiến Tánh,

    Tiên giáo dạy Tu Tâm luyện Tánh,

    Nho giáo dạy Tồn Tâm dưỡng Tánh.

    Làm phải: Làm điều hợp với Luân thường Ðạo lý.

    Làm lành: Làm điều hợp với Ðức háo sanh của Thượng Ðế và hợp với sự Tiến hóa, tức là xả thân giúp đời giúp người.

    Câu 6: Tam giáo dạy lấy Tâm làm gốc, dạy làm điều phải, tránh điều quấy, dạy làm điều thiện, tránh điều ác.

    Câu 7: Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành.

    GIẢI NGHĨA

    Trung Dung: Một học thuyết rất cao siêu của Nho giáo, do Ông Tử Tư (cháu nội của Ðức Khổng Tử, học trò của Tăng Tử) gom góp các lời dạy của Ðức Khổng Tử mà lập thành. Trung là không thiên lệch, là đường chánh trong thiên hạ; Dung là không thay đổi, là lẽ nhứt định trong thiên hạ.

    Mọi việc ở đời đều có cái mức quân bình, đích đáng. Chưa đến cái mức ấy thì việc làm phải sai; quá cái mức ấy thì việc làm cũng không đúng; mức quân bình ấy cũng gọi là Trung. Ở đời, việc nhỏ như ăn uống hằng ngày, việc lớn như kinh luân thiên hạ, đều có cái lý bình thường chi phối tất cả, lý ấy thiết thực, không quái lạ mà cũng thay đổi đi được, ấy cũng là Dung. Vậy, Trung Dung là cái mức quân bình thích đáng trong tất cả mọi sự vật và con người, cũng như trong tất cả tác động của Trời Ðất.

    Trong bài Khai Kinh Kệ (Hán văn) thì nói là Trung Thứ. Trung là hết lòng mình, Thứ là suy lòng mình ra lòng người. Sách Trung Dung có nói: Trung Thứ vi Ðạo bất viễn, thi chư kỷ nhi bất nguyện, diệc vật thi ư nhân. Nghĩa là: Trung và Thứ thì cách Ðạo không xa, hễ điều gì làm cho mình mà mình không muốn thì cũng đừng làm cho người.

    Khổng Thánh: Ðức Thánh Khổng Tử, Giáo chủ Nho giáo.

    Câu 7: Ðức Thánh Khổng tử dạy về đạo Trung Dung rất rành rẽ.

    Câu 8: Từ bi Phật dặn lòng thành lòng nhơn.

    GIẢI NGHĨA

    Từ bi: Từ là lòng thương yêu chúng sanh, bi là lòng trắc ẩn thương cảm các cảnh khổ não của chúng sanh và muốn giúp chúng sanh thoát khổ. Từ bi là hạnh đặc trưng của Phật.

    Dặn: Căn dặn, dặn dò.

    Lòng thành: Lòng thành thật.

    Lòng nhơn: Lòng thương người mến vật, thương khắp chúng sanh.

    Câu 8: Ðức Phật căn dặn phải có lòng từ bi, lòng thành thật, và lòng thương yêu khắp chúng sanh.

    Câu 9: Phép Tiên đạo tu chơn dưỡng tánh.

    GIẢI NGHĨA

    Phép Tiên đạo: Phương pháp tu luyện của đạo Tiên, hay nói khác hơn là Tâm pháp tu luyện của Tiên giáo.

    Tu chơn: Tu là sửa đổi cho được tốt đẹp hơn, chơn là thật. Tu chơn là lối tu quyết tâm sửa đổi con người của mình mỗi lúc một thêm tốt đẹp, thiện lương, chơn chánh, không cần ăn ngon mặc đẹp, chức tước quyền hành hay mão cao áo rộng, chỉ cốt đạt được mục đích quan trọng là giải thoát khỏi luân hồi. Ðây chính là con đường tu thứ ba của Ðạo Cao Ðài.

    "Cách thứ ba là cách Tu chơn hay là cách Tịnh luyện cũng thế. Những người đi trong Cửu phẩm Thần Tiên (nơi Cửu Trùng Ðài) hay đi trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng (nơi Cơ Quan Phước Thiện), khi mình nhận thấy là đã Lập Ðức, Lập Công, Lập Ngôn rồi, hay là đã thọ khổ và thắng khổ rồi mà còn sức nữa thì vào Nhà Tịnh để được Tu chơn. Nơi đây, các vị đó sẽ học phương pháp luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, tức là Tinh Khí Thần hiệp nhứt, là huờn Hư đó vậy." (TÐ. Đức Phạm Hộ Pháp về Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, trang 5).

    Dưỡng tánh: Dưỡng là nuôi nấng, Tánh là bản thể của Tâm, bên trong là Tâm, thể hiện ra ngoài là Tánh. Cho nên, Tâm và Tánh, tuy 2 danh từ khác nhau, nhưng sự tác động vẫn một. Cái bổn Tánh của con người do Trời ban cho vốn lành

    (Nhơn chi sơ, Tánh bổn thiện), nhưng vì thâm nhiễm mùi trần nên sanh lòng ham muốn, làm cho Tánh biến đổi, trở nên không lành. Con người cần nuôi dưỡng cái Tánh của mình cho được lành như thuở mới sanh ra, rèn luyện trau giồi cho càng ngày càng trở nên linh thiêng sáng suốt thì tự nhiên giao tiếp được với Trời, tức là Nhơn Tánh được hiệp cùng Thiên Tánh.

    Câu 9: Cái Tâm pháp tu luyện của đạo Tiên dạy về Tu chơn và Dưỡng Tánh.

    Câu 10: Một cội sanh ba nhánh in nhau.

    GIẢI NGHĨA

    Một cội: Một gốc, gốc đó là Thái Cực, tức là Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

    Ba nhánh: 3 tôn giáo lớn, tức là Tam giáo: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo.

    In nhau: Giống hệt nhau.

    TNHT. I. 14: "Nhiên Ðăng Cổ Phật thị Ngã, Thích Ca Mâu Ni thị Ngã, Thái Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã, kim viết CAO ÐÀI." (Nhiên Ðăng Cổ Phật là Ta, Thích Ca Mâu Ni là Ta, Thái Thượng Nguơn Thỉ là Ta, nay gọi là Ðấng Cao Ðài.)

    Qua lời Thánh giáo trên của Ðức Chí Tôn, chúng ta nhận thấy rằng, mỗi khi Ðức Chí Tôn thấy nhơn loại đi vào đường tà mị hắc ám thì Ngài mở lòng Ðại từ Ðại bi, sai các Ðấng Phật Tiên giáng trần mở Ðạo giáo hóa nhơn sanh. Thời thái cổ (Nhứt Kỳ Phổ Ðộ), Ðức Chí Tôn sai Ðức Phật Nhiên Ðăng mở Phật giáo; thời thượng cổ (Nhị Kỳ Phổ Ðộ), Ðức Chí Tôn lại sai Ðức Phật Thích Ca mở Ðạo Phật ở Ấn Ðộ, Ðức Thái Thượng mở Ðạo Tiên ở Trung Hoa, Ðức Khổng Tử mở Nho giáo cũng ở Trung Hoa, Ðức Chúa Jésus mở Ðạo Thánh ở Do Thái. Các Ðấng ấy đều vâng lịnh Ðức Chí Tôn giáng trần mở Ðạo cứu đời. Như vậy, tuy các Ðạo có giáo lý khác nhau vì nhơn sanh ở mỗi vùng có trình độ tiến hóa khác nhau, nhưng cùng giống nhau ở mục đích là dạy nhơn sanh tu hành, tiến hóa trên đường đạo đức chơn chánh, hầu đoạt vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng, thoát khỏi luân hồi.

    Tam giáo từ xưa vốn một nhà,

    Người sau lầm tưởng vọng chia ba. (Ðức Khổng Tử)

    Câu 10: Tam giáo đều có cùng một gốc mà ra, gốc đó là Ðức Chí Tôn, mà ngày nay thời TKPÐ gọi là Ðấng Cao Ðài.

    Câu 11: Làm người rõ thấu lý sâu.

    GIẢI NGHĨA

    Thấu: Thông suốt.

    Rõ thấu: Biết rõ, biết một cách thông suốt.

    Lý sâu: Cái lẽ sâu xa huyền diệu của Trời Ðất. Ðó là Chơn lý hằng hữu bất biến của Càn Khôn Vũ Trụ.

    Con người là loài Thượng đẳng chúng sanh, có Tánh linh hơn vạn vật, nên cần phải tìm tòi học hỏi trong các kinh sách để biết rõ các lẽ cao siêu huyền diệu của Trời Ðất, thì mới biết tùng theo Thiên lý mà trở về cùng Ðức Chí Tôn.

    Câu 11: Làm một con người nơi cõi trần cần phải tìm tòi học hỏi để biết rõ cái Chơn lý huyền diệu của Trời Ðất.

    Câu 12: Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh.

    GIẢI NGHĨA

    Sửa lòng: chữ Hán là Tu Tâm, nghĩa là sửa đổi cái Tâm cho chơn chánh tốt đẹp.

    Trong sạch: Trong thì được thanh nhẹ, sạch thì không ô trược. Tâm trong sạch thì làn sóng tư tưởng mới thanh nhẹ, vượt lên khỏi lớp không khí, đến với các Ðấng thiêng liêng.

    Tụng cầu: Tụng kinh và cầu nguyện.

    Thánh Kinh: Các bài kinh do các Ðấng Phật Tiên Thánh giáng cơ ban cho.

    Câu 12: Cần phải sửa đổi cái Tâm cho trong sạch để tụng kinh và cầu nguyện thì mới được sự cảm ứng của các Ðấng thiêng liêng.

    2. Nguồn gốc bài kinh.

    Bài Khai Kinh có nguồn gốc là bài Kinh chữ Hán, tựa là KHAI KINH KỆ trong quyển Kinh Huyền Môn Nhựt Tụng từ bên Tàu truyền sang nước ta.

    Vào năm Ất Sửu (1925), Ðức Lữ Tổ giáng cơ tại Chi Minh Lý, diễn nôm bài Khai Kinh Kệ nói trên, ban cho Chi nầy làm bài Khai Kinh để tụng trước khi tụng Kinh Sám Hối.

    Ðây là một trong 6 bài Kinh mà Hội Thánh vâng lịnh Ðức Chí Tôn thỉnh từ Chi Minh Lý về làm Kinh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

    Sau đây, xin chép lại bài Khai Kinh Kệ:

    KHAI KINH KỆ 開 經 偈
    Trần hải mang mang thủy, nhựt đông, 塵 海 茫 茫 水 日 東
    Vãn hồi toàn trượng Chủ Nhơn Công. 挽 回 全 仗 主 人 公
    Yếu tri Tam giáo tâm nguyên hiệp, 要 知 三 敎 心 源 合
    Trung thứ, Từ bi, Cảm ứng, đồng. 忠 恕 慈 悲 感 應 同

    DỊCH NGHĨA: Bài kệ mở đầu các bài kinh.

    - Biển trần bát ngát mênh mông nước, mặt trời ở phương Ðông,

    - Vãn hồi được là hoàn toàn nhờ vào Ðấng Thái Thượng Ðạo Tổ.

    - Những điều trọng yếu cần biết của Tam giáo là do cái Tâm làm gốc cho sự hòa hợp.

    - Ðức Khổng Tử dạy Trung Thứ, Ðức Phật dạy Từ Bi, Ðức Thái Thượng dạy Cảm Ứng, đều đồng như nhau.

    Bài Khai Kinh Kệ gồm 4 câu thơ chữ Hán được Ðức Lữ Tổ diễn nôm thoát ý một cách tuyệt diệu theo thể thơ song thất lục bát gồm 9 câu: Từ câu 1 đến câu 9. Ðức Lữ Tổ viết thêm 3 câu chót, dường như có ý để về sau dùng bài nầy làm Khai Kinh cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ Tam giáo qui nguyên:

    10. Một cội sanh ba nhánh in nhau,

    11. Làm người rõ thấu lý sâu,

    12. Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh.

    (Lữ Tổ là Lữ Ðồng Tân, đạo hiệu là Lữ Thuần Dương, một vị Ðại Tiên trong Bát Tiên, thường giáng cơ ban cho kinh điển).

  • Kinh Cúng Tứ Thời: Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế

    1. Giải nghĩa KINH NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ.

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Ðại La Thiên Ðế.
    Thái Cực Thánh Hoàng.
    Ðấng Ðại La Thiên Ðế. Ðấng Thái Cực Thánh Hoàng.
    3. Hóa dục quần sanh. Sanh ra và nuôi dưỡng các loài sanh vật.
    4. Thống ngự vạn vật. Ðấng Thượng Ðế cai trị toàn cả vạn vật.
    5. Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết. Cái cổng lớn Huỳnh Kim Khuyết ở mù mù rất xa.
    6. Nguy nguy cao Bạch Ngọc Kinh. Ðền Bạch Ngọc Kinh đồ sộ cao vòi vọi.
    7. Nhược thiệt nhược hư. Như là thật nhìn thấy được, như trống không, không thấy gì cả.
    8. Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa. Không nói ra mà cứ yên lặng tỏ bày cuộc biến đổi rộng lớn trong khắp Càn Khôn Vũ Trụ.
    9. Thị không thị sắc. Là trống không, là có hình tướng.
    10. Vô vi nhi dịch sử quần linh. Ở trạng thái vô vi mà sai khiến vạn linh trong khắp Càn Khôn Vũ Trụ.
    11. Thời thừa lục long du hành bất tức. Thường cỡi 6 rồng đi khắp nơi không ngừng nghỉ.
    12. Khí phân Tứ Tượng. Hai khí Dương quang và Âm quang phối hợp sanh ra Tứ Tượng.
    13. Oát triền vô biên. Xoay chuyển qua lại, rộng ra không giới hạn.
    14. Càn kiện cao minh. Ngôi Càn mạnh mẽ, cao vọi, sáng tỏ.
    15. Vạn loại thiện ác tất kiến. Việc lành, việc dữ của muôn loài vật đều biết và thấy rõ.
    16. Huyền phạm quảng đại. Cái khuôn phép huyền diệu và rộng lớn.
    17. Nhứt toán họa phước lập phân. Chỉ một cái tính toán mà Ðức Chí Tôn tạo lập và chia ra một cách rành rẽ cái nào là họa, cái nào là phước.
    18. Thượng chưởng Tam thập lục Thiên,
    Tam thiên Thế giới.
    Ở phần trên của Vũ trụ, Ðức Chí Tôn chưởng quản 36 từng Trời và 3000 Thế giới.
    19. Hạ ốc Thất thập nhị Ðịa, Tứ Ðại Bộ Châu. Ở phần dưới của vũ trụ, Ðức Chí Tôn chưởng quản 72 Ðịa cầu và 4 Bộ Châu lớn.
    20. Tiên Thiên, Hậu Thiên,
    Tịnh dục Ðại Từ Phụ.
    Trước khi tạo dựng Trời Ðất, sau khi tạo dựng Trời Ðất, Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ của toàn cả chúng sanh, nuôi dưỡng chúng sanh đồng đều như nhau.
    21. Kim ngưỡng, cổ ngưỡng. Thời nay cũng như thời xưa đều được kính mến.
    22. Phổ tế Tổng Pháp Tông. Giúp đỡ chúng sanh, gom tất cả Giáo lý các tôn giáo qui về một mối.
    23. Nãi Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần chi quân. Ấy là vua của Mặt trời, Mặt trăng, Ngôi sao, và ngày giờ, tức là vua của Không gian và Thời gian.
    24. Vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ. Là người chủ của chư Thần, Thánh Tiên Phật.
    25. Trạm tịch chơn đạo, Ðạo chơn thật,sâu dày, yên lặng.
    26. Khôi mịch tôn nghiêm. To lớn, lặng lẽ, tôn kính, oai nghiêm.
    27. Biến hóa vô cùng. Biến hóa không cùng tận.
    28. Lũ truyền bửu kinh dĩ giác thế. Nhiều lần truyền bá kinh sách quí báu để giác ngộ người đời.
    29. Linh oai mạc trắc. Cái oai quyền thiêng liêng của Ðức Chí Tôn không thể đo lường để biết rõ được.
    30. Thường thi Thần giáo dĩ lợi sanh. Thường sắp đặt cho các Chơn linh giáng trần mở Ðạo giáo hóa làm lợi ích cho nhơn sanh.
    31. Hồng oai, Hồng từ. Oai quyền lớn do lòng thương yêu và đức thương yêu lớn.
    32. Vô cực vô thượng. Cao hơn tất cả, trên tất cả.
    33. Ðại Thánh, Ðại nguyện, Ðại Tạo, Ðại Bi. Ðức Thánh lớn, Lời nguyện lớn, Ðức tạo hóa lớn, Ðức bi lớn.
    34. Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng, Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế huyền diệu, to lớn, cao tột,
    35. Tích phước hựu tội. Ban phước và tha tội.
    36. Ðại Thiên Tôn. Ðấng lớn nhứt, được tôn kính nhứt trong Càn Khôn Vũ Trụ.

    (Lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy: Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát)

    Câu 1-2: Ðại La Thiên Ðế, Thái Cực Thánh Hoàng.

    GIẢI NGHĨA

    Ðại: Lớn.

    La: Tấm lưới. Ðại La là tấm lưới lớn.

    Thiên: Trời.

    Ðế: Vua. Thiên Ðế là vua Trời.

    Thái Cực: Ngôi của Ðấng Chí Tôn Thượng Ðế.

    Thánh: Thiêng liêng mầu nhiệm.

    Hoàng: Vua. Thánh Hoàng là vua Thánh.

    Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 62: "Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong CKTG thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng, mới lập ra CKTG. Thầy lại phân Tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm, gọi là chúng sanh."

    Bài Thánh ngôn trên của Ðức Chí Tôn là nền tảng Triết lý về Vũ Trụ Quan của Ðạo Cao Ðài.

    Trước khi tạo dựng Càn Khôn Vũ Trụ thì trong khoảng không gian bao la, chỉ có một khí Hồng Mông Hỗn Ðộn mờ mờ mịt mịt gọi là Hư Vô chi Khí (Khí Hư Vô). Khi tới ngày giờ thì trong Khí ấy nổ ra một tiếng dữ dội, sanh ra một Ðấng gọi là Ngọc Hoàng Thượng Ðế mà ngôi của Ngài là Thái Cực.

    Ðấng ấy là Ðấng Tuyệt đối, duy có một, huyền diệu vô cùng, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng. Ðấng ấy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm Quang và Dương Quang. Ngài làm chủ Dương Quang, rồi Ngài hóa thân ra Ðức Phật Mẫu để làm chủ Âm Quang.

    Khi đã có đủ Âm Dương rồi, Ngài cho Âm Dương chuyển động, biến hóa ra Tứ Tượng: Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm. Tứ Tượng biến hóa ra Bát Quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Ðoài. Bát Quái tiếp tục biến hóa tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

    Càn Khôn Vũ Trụ của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế về phần hữu hình gồm có: Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới) và Thất thập nhị Ðịa (72 Ðịa cầu), cộng lại là 3072 ngôi sao. Mỗi ngôi sao có một vị Thiên Ðế cai quản. (Thiên đế cũng là hóa thân của Thượng Ðế). Các ngôi sao ấy được ví như những mắc lưới của một tấm lưới lớn (Ðại La) bao trùm Càn Khôn Vũ Trụ, nên Ðấng chưởng quản toàn cả tấm lưới lớn ấy được gọi là Ðại La Thiên Ðế. Ðấng ấy là vị vua thiêng liêng ngự tại ngôi Thái Cực, nên cũng gọi Ðấng ấy là Thái Cực Thánh Hoàng.

    Ðấng ấy hóa sanh ra vạn vật và nhơn loại, là CHA chung của chúng sanh, nên còn gọi Ðấng ấy là Ðại Từ Phụ.

    Ðấng ấy là Ðấng duy nhứt, được tôn kính nhứt trong Càn Khôn Vũ Trụ, nên gọi Ðấng ấy là Ðại Thiên Tôn.

    (Ðấng Thiên Ðế cai quản Ðịa cầu 68 của nhơn loại chúng ta được Phật giáo gọi là Phạm Thiên Vương hay Ðế Thích).

    Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế thường ngự trên một cái đài cao nơi Linh Tiêu Ðiện Ngọc Hư Cung để họp Thiên triều của Ngài, nên Ngài tự xưng là Ðấng Cao Ðài, và Ngài đặt ra Câu Chú riêng của Ngài trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gồm 12 chữ là: "Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma ha Tát".

    Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được gọi là Ðạo Cao Ðài là vì tôn giáo nầy do Ðấng Cao Ðài giáng cơ lập ra và làm Giáo chủ. Ngài giáng cơ dạy đạo, xưng mình là Thầy và gọi các tín đồ là Môn đệ.

    Nhơn loại thường gọi Ðấng Cao Ðài là Ðức Chí Tôn, đôi khi cũng gọi là Ðấng Chí Linh, Ðấng Chí Công.

    Tóm lại, trong Càn Khôn Vũ Trụ nầy, có một Ðấng duy nhứt tạo dựng ra Càn Khôn Vũ Trụ và hóa sanh vạn vật. Ðấng ấy được người đời gọi bằng nhiều danh từ khác nhau tùy theo trường hợp, kể ra:

    Ðấng Ðại La Thiên Ðế.
    Ðấng Thái Cực Thánh Hoàng.
    Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế, hay vắn tắt là Ðấng Thượng Ðế.
    Ðấng Huyền Khung Cao Thượng Ðế Ngọc Hoàng.
    Ðấng Ðại Thiên Tôn.
    Ðấng Ðại Từ Phụ.
    Ðấng Cao Ðài.
    Ðấng Chí Tôn, Ðấng Chí Linh, Ðấng Chí Công.
    Ðấng ấy tự xưng là Thầy và gọi Tín đồ là Môn đệ.

    Câu 1-2: Có một Ðấng tạo dựng ra Càn Khôn Vũ Trụ, hóa sanh vạn vật, được người đời gọi là Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế và nhiều danh hiệu khác nữa, trong đó có 2 danh hiệu là: Ðại La Thiên Ðế, Thái Cực Thánh Hoàng.

    Câu 3: Hóa dục quần sanh,

    GIẢI NGHĨA

    Hóa: Sanh ra.

    Dục: Nuôi dưỡng.

    Quần: Nhiều, tụ họp đông đảo.

    Sanh: Sống.

    Quần sanh: đồng nghĩa với Chúng sanh, chỉ tất cả các loài có sự sống như: Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm và Nhơn loại.

    Câu 3: Câu 3: Ðấng Thượng Ðế hóa sanh và nuôi dưỡng các loài sanh vật.

    Câu 4: Thống ngự vạn vật.

    GIẢI NGHĨA

    Thống: Tóm lãnh hết cả.

    Ngự: Cai trị.

    Câu 4: Câu 4: Ðấng Thượng Ðế cai trị toàn cả vạn vật.

    Câu 5: Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết,

    GIẢI NGHĨA

    Diệu: Còn được đọc là Diêu, Diểu, Miểu, nghĩa là xa tít mù.

    Diệu diệu: Ở mù mù rất xa.

    Huỳnh: Màu vàng.

    Kim: Vàng, một thứ kim loại rất quí, là vua của các kim loại. Huỳnh Kim là vàng ròng.

    Khuyết: Cái cổng vào đền vua.

    Huỳnh Kim Khuyết: Cái cổng làm toàn bằng vàng ròng để đi vào Ðền của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Phía trong Huỳnh Kim Khuyết là nơi họp Triều đình của Ðức Thượng Ðế .

    Câu 5: Cái cổng lớn Huỳnh Kim Khuyết ở mù mù rất xa.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo "Con đường Thiêng liêng Hằng sống" có nói như sau:

    "Trên hết, chúng ta ngó thấy Ðức Chí Tôn ngự với cái triều nghi của Ngài là Huỳnh Kim Khuyết. Nơi Huỳnh Kim Khuyết, trên đầu của Ngài nơi xa xa, chúng ta thấy vọi vọi, xa nữa chúng ta thấy 3 vị Phật mà hiện giờ ta thấy tượng hình nơi nóc BQÐ là: Brahma Phật, Civa Phật, và Christna Phật, ngự trên nữa, xa hơn nữa, coi vọi vọi xa xăm hơn nữa, chúng ta không thế gì tưởng tượng được, con mắt mình ngó thấy như một đạo hào quang chớp nhoáng mà không có hình ảnh gì hết, chiếu diệu trên cái triều nghi của Ngài là Huỳnh Kim Khuyết, mà dưới Huỳnh Kim Khuyết là Cửu phẩm Thần Tiên đang ngự triều với Ðức Chí Tôn, chúng ta không thế gì tưởng tượng được, oai nghiêm huyền bí làm sao!"

    Câu 6: Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.

    GIẢI NGHĨA

    Nguy: Dáng núi cao lớn đồ sộ.

    Nguy nguy: Ðồ sộ cao vòi vọi.

    Bạch Ngọc: Loại đá quí màu trắng trong rất đẹp.

    Kinh: Tòa lâu đài to lớn dùng làm nơi đóng đô của vua.

    Vàng là vua loài kim, Ngọc là vua loài đá, cho nên 2 thứ quí báu nầy được dùng làm các vật dụng của vua hay để trang trí trong đền vua.

    Bạch Ngọc Kinh là tòa lâu đài đồ sộ làm toàn bằng ngọc trắng, làm nơi ngự của Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

    Câu 6: Ðền Bạch Ngọc Kinh đồ sộ cao vòi vọi.

    Có bài thơ trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 112 mô tả Bạch Ngọc Kinh:

    Tân tả Bạch Ngọc Kinh

    Một tòa Thiên các ngọc làu làu,
    Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
    Vạn trượng then gài ngăn Bắc Ðẩu,
    Muôn trùng nhiếp khảm hiệp Nam Tào.
    Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
    Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
    Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
    Vững bền muôn kiếp chẳng hề xao.

    Bạch Ngọc Kinh là tòa lâu đài quí báu nhứt, đồ sộ đẹp đẽ nhứt, huyền diệu nhứt nơi cõi Thiêng Liêng. Lâu đài nơi cõi trần còn bị hư sập hay bị hủy hoại theo thời gian, nhưng Bạch Ngọc Kinh thì tồn tại vĩnh viễn. Tất cả các Chơn linh , khi đã đắc đạo, đều phải đến Bạch Ngọc Kinh bái lễ Ðức Chí Tôn.

    Tòa Thánh Tây Ninh được Ðức Phạm Hộ Pháp xây cất theo kiểu vở do Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ vẽ ra, căn cứ theo hình ảnh của Bạch Ngọc Kinh. Do đó, Tòa Thánh Tây Ninh được xem là Bạch Ngọc Kinh tại thế.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo về Con đường Thiêng liêng Hằng sống có mô tả Bạch Ngọc Kinh như sau:

    "Lại gần tới, còn thấy một vật khác thường quái lạ, nhưng nó là một tòa Thiên các đẹp đẽ lắm, màu sắc thay đổi sáng rỡ, mà cả Thoại khí bao quanh, làm như thể vận chuyển hình trạng của nó vậy. Lâu đài chớn chở mà nó là con vật sống chớ không như gạch đá chúng ta làm đây, nó vận hành như con vật sống vậy, thay đổi màu sắc vô cùng vô biên.

    Bí pháp ấy không thế gì tả đặng, ngó thấy đặc sắc lắm!

    Nhà cửa ở thế gian nầy là con vật chết, Bạch Ngọc Kinh là con vật sống, biến hóa thay đổi như thể vận hành, xung quanh Thoại khí bao trùm, từ Nam chí Bắc, từ Ðông qua Tây. Khối lửa ánh sáng ấy, chúng ta ngó thấy như mặt trời vậy, mà ánh sáng mặt trời thì nóng nực bực bội, còn ánh sáng nơi tòa Bạch Ngọc Kinh lại dịu dàng và huyền bí lắm, sung sướng khoái lạc lắm!

    Tại sao đài các là con tử vật mà nó sống? Sống là do nơi đâu? Nếu biết thì không lạ gì!

    Bạch Ngọc Kinh là do Hỗn Nguơn Khí biến hình ra. Hỗn Nguơn Khí là Khí Sanh Quang của chúng ta đã thở, đã hô hấp, khí để nuôi cả sanh vật sống. Ta sống cũng do do nơi nó xuất hiện, mà biểu nó làm sao không sống?

    Khi Bần đạo ngồi trên Pháp xa đến, thấy các Chơn linh hằng hà sa số, bao vây trước cửa la liệt không thể đếm. Pháp xa vừa ngừng, Bần đạo bước xuống thấy 3 cửa nơi Bạch Ngọc Kinh có 12 vị Thời Quân mặc khôi giáp, tay cầm Bửu pháp, đứng cản đường không cho thiên hạ vô. Bần đạo thấy 3 cửa ấy xa nhau, mỗi cửa có 4 người giữ. Bần đạo muốn nói chuyện thì 3 cửa ấy gom lại, 12 người hiệp lại đứng trước mặt Bần đạo. Bần đạo hỏi, vì cớ nào không cho người ta vô?

    Vừa hỏi thì họ bỡ ngỡ nói người ta biểu đừng cho vô. Nói người ta biểu thì Bần đạo biết là Kim Quang Sứ biểu xúi đừng cho các Chơn linh vào Bạch Ngọc Kinh. Giận quá, day mặt ra ngoài biểu các Chơn linh vô. Họ tràn vô nghe một cái ào, dường như nước bể bờ chảy vào Bạch Ngọc Kinh vậy. Tới chừng các Chơn linh vô hết, liền biểu 12 vị Thời Quân vô, rồi đứng dòm cùng hết thảy coi còn ai ở ngoài nữa không? Bần đạo cầm cây Giáng Ma Xử đi vô Bạch Ngọc Kinh sau hết.

    Bạch Ngọc Kinh chia làm 3 căn, cửa chính giữa các vị Phật cao siêu, mình đứng day vô, phía bên tả là phái nữ, phía bên hữu là phái nam. Bần đạo nghe đi rần rần rộ rộ, bên kia thì thấy hình bóng chiếu qua vách mà thôi, tấm vách thật lạ lùng, trong trắng giống như sương sa vậy.

    Buổi đầu, Bần đạo không để ý, đi tới nữa, thấy cả thảy đều có ngôi vị của họ sẵn. Bần đạo vô cửa thấy họ ngồi có chỗ hết, còn mình thì bơ thờ, cầm cây Giáng Ma Xử đi vô, không biết đi đâu. Nói sao người ta có chỗ ngồi, còn mình không có? Vừa nói rồi thì thấy có người đứng gần bên mình mà không hay, họ trả lời: Cái ngai của Ngài kia. Bần đạo dòm lên thấy cái ngai tốt lắm, thấy rồi mà trong bụng hồ nghi nói không biết họ có gạt mình không. Bần đạo sợ, vừa sợ thì có người nói: Chính cái ngai đó là của Ngài.

    Từ thử đến giờ, dầu vạn kiếp sanh chịu khổ để tạo vị nơi mặt thế gian nầy cũng không bằng ngồi được trên đó. Nơi đó sung sướng lắm, sung sướng làm sao đâu! ..."

    Câu 7: Nhược thiệt nhược hư,

    GIẢI NGHĨA

    Nhược: Nếu như, ví bằng.

    Thiệt: Thực, có hình ảnh cụ thể thấy được.

    Hư: Trống không, không thấy gì cả.

    Câu 7: Như là có thật, nhìn thấy được; như là trống không, không thấy gì cả.

    Ðó là Ðạo Trời huyền diệu không lường, hư hư thực thực, biến hóa mầu nhiệm vô cùng, lúc có lúc không, không thể nào lấy trí phàm mà biết hết được.

    Câu 8: Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa.

    GIẢI NGHĨA

    Bất: Không.

    Ngôn: Lời nói.

    Bất ngôn: Không lời nói.

    Nhi: Mà.

    Mặc: Yên lặng.

    Tuyên: Bày tỏ cho người khác biết.

    Ðại: Lớn.

    Hóa: Biến đổi.

    Ðại hóa: Cuộc biến hóa lớn.

    Câu 8: Không nói ra mà cứ yên lặng tỏ bày cuộc biến đổi rộng lớn trong khắp Càn Khôn Vũ Trụ.

    Sách Luận Ngữ: Thiên hà ngôn tai! Tứ thời hành yên? Vạn vật sanh yên? Nghĩa là: Trời có nói gì đâu! Bốn mùa há không vận chuyển sao? Muôn vật há không sanh hóa sao?

    Câu 9: Thị không, thị sắc,

    GIẢI NGHĨA

    Thị: Là, ấy là.

    Không: Trống rổng, mắt phàm không thấy chi cả.

    Sắc: Những thứ có hình tướng, mắt phàm thấy rõ.

    Câu 9: Là trống không, là không có hình tướng.

    SẮC thì có hình tướng nên thuộc vật chất hữu hình.

    KHÔNG thuộc vô vi, không hình tướng, mắt phàm không thể thấy được. Nói như thế là đối với người phàm, với mắt phàm; nhưng đối với con mắt thiêng liêng thì không có gì là KHÔNG, không có gì là SẮC, tức là không còn phân biệt SẮC và KHÔNG.

    Bát Nhã Tâm Kinh của Phật giáo có câu:

    "SẮC tức thị KHÔNG, KHÔNG tức thị SẮC,
    SẮC bất dị KHÔNG, KHÔNG bất dị SẮC."

    Nghĩa là:

    SẮC tức là KHÔNG, KHÔNG tức là SẮC,
    SẮC không khác với KHÔNG, KHÔNG không khác với SẮC.

    Trong Ðạo Ðức Kinh, Ðức Lão Tử cũng có nói: "Hữu xuất ư Vô". Nghĩa là: Cái CÓ từ cái KHÔNG mà ra.

    Thuở tạo dựng Trời Ðất, Ðức Chí Tôn dùng 2 Khí Dương quang và Âm quang, là 2 chất khí không hình ảnh (tức là KHÔNG) để phối hợp sanh ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật có hình thể (tức là SẮC). Như vậy, Ðức Chí Tôn đã lấy KHÔNG mà tạo thành SẮC. Khi đã có sắc tướng rồi thì phải chịu luật Thành Trụ Hoại Diệt, sắc tướng chỉ tồn tại một thơì gian rồi phải bị tiêu diệt để trở về KHÔNG, tức là trở về nguồn cội Vô Vi.

    Câu 10: Vô vi nhi dịch sử quần linh.

    GIẢI NGHĨA

    Vô: Không.

    Vi: Làm.

    Nhi: Mà.

    Dịch: Sai khiến làm việc.

    Sử: Sai khiến.

    Quần linh: Quần là nhiều, Linh là chơn linh, Linh hồn. Quần linh đồng nghĩa Vạn linh, chỉ tất cả chơn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ gồm đủ Bát phẩm chơn hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.

    Vô Vi: Nghĩa đen là không làm, nghĩa thường dùng là không hình ảnh, thuộc vô hình. Trái với Vô Vi là Hữu Vi, là có hình ảnh thấy được, thuộc hữu hình sắc tướng.

    Ðạo Ðức Kinh viết rằng: "Ðạo thường vô vi nhi vô bất vi". Nghĩa là: Cái Ðạo thường thì không làm gì nhưng không việc gì không làm được.

    Ðạo là Hư Vô chi Khí, mà Hư Vô chi Khí sanh ra Ðức Chí Tôn, nên Ðức Chí Tôn cũng chính là Ðạo. Ngài không làm gì nhưng sai khiến được Vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ vì Ngài là Ðạo.

    Câu 10: Ðức Chí Tôn ở trạng thái vô vi mà sai khiến toàn cả vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ.

    Câu 11: Thời thừa lục long, du hành bất tức.

    GIẢI NGHĨA

    Thời: Thường thường.

    Thừa: Cỡi.

    Lục long: Sáu con rồng.

    Du hành: Ði khắp nơi.

    Bất tức: Không ngừng nghỉ.

    Lục long là 6 con rồng, tượng trưng 6 vạch liền của quẻ CÀN (image here) trong Kinh Dịch.

    Vương Bật, thuộc phái Huyền học thời Nam Bắc Triều bên Tàu, chú giải tượng của quẻ Càn trong Kinh Dịch như sau:

    "Thời thừa lục long dĩ ngự Thiên, Càn đạo biến hóa, các chánh tánh mạng." Nghĩa là: Luôn luôn cỡi 6 rồng để ngự trị Trời, đạo Càn biến hóa, mỗi vật giữ ngay ngắn vận mạng của bản tánh.

    Càn tượng trưng Trời. Thời thừa lục long là chỉ cái sức mạnh mẽ của Ðấng Thượng Ðế bao trùm Càn Khôn Vũ Trụ như 6 con rồng vùng vẫy trong không trung.

    Du hành bất tức là chỉ sự vận chuyển và sự biến hóa luôn luôn, và vô cùng tận của Ðấng Thượng Ðế.

    Nơi nóc Plafond dù ở 9 cấp Cửu Trùng Ðài của Tòa Thánh Tây Ninh, có tạc hình 6 con rồng đoanh nhau theo 3 màu đạo: 2 rồng vàng, 2 rồng xanh, 2 rồng đỏ, để tượng trưng cho Câu kinh 11 ở trên.

    Câu 11: Nghĩa đen là: Thường cỡi 6 rồng đi khắp nơi không ngừng nghỉ. Nghĩa bóng là: Cái sức mạnh to lớn và sự chuyển vận biến hóa vô cùng tận của Ðấng Thượng Ðế.

    Câu 12: Khí phân Tứ Tượng,

    GIẢI NGHĨA

    Khí: Chất khí, ở đây chỉ khí Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang.

    Phân: Chia ra.

    Tứ Tượng: Bốn Tượng gồm: Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm.

    Theo phần Giải nghĩa nơi Câu 1 và Câu 2 thì: Khí Hư Vô biến sanh Thái Cực, ngôi của Ðức Chí Tôn và đó cũng là một Khối Ðại Linh Quang của Ðức Chí Tôn. Ðức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Hai khí nầy xây chuyển và phối hợp với nhau để sanh ra Tứ Tượng. Rồi Tứ Tượng biến hóa tiếp tục để tạo ra Bát Quái. Bát Quái biến hóa vô cùng để tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

    Như vậy, nguồn gốc phát khởi là Khí Hư Vô.

    Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng đều là thể khí với nguồn năng lực là ánh sáng linh thiêng vô cùng tận. Tới khi Bát Quái biến hóa thì bắt đầu có Trời Ðất và vạn vật hữu hình.

    Câu 12: Khí phân Tứ tượng là 2 khí Dương quang và Âm quang phối hợp để hóa sanh ra Tứ Tượng.

    Câu 13: Oát triền vô biên.

    GIẢI NGHĨA

    Oát: Chuyển xoay đi.

    Triền: Xoay trở lại. Oát triền là xoay chuyển qua lại.

    Vô biên: Không biên giới, không giới hạn.

    CHÚ Ý: Chữ Hán 斡 旋 phải phiên âm ra tiếng Việt là OÁT TRIỀN thì mới đúng chánh tả, theo Từ Ðiển Hán Việt của Ðào Duy Anh quyển II, trang 87 và 490.

    Câu 13: Xoay chuyển qua lại, rộng ra không giới hạn.

    Câu 14: Càn kiện cao minh,

    GIẢI NGHĨA

    Càn: Quẻ đầu tiên trong Bát Quái, tượng trưng Trời.

    Kiện: Mạnh mẽ.

    Cao: Ở trên cao.

    Minh: Sáng tỏ.

    Câu 14: Ngôi Càn mạnh mẽ, cao vọi, sáng tỏ.

    Trong quyển "Châu Dịch Huyền Giải" của Minh Lý Ðạo ấn tống, nói về sự mạnh mẽ của ngôi Càn như sau:

    "Kiền (Càn) là cương kiện. Nói rõ hơn, Kiền là cương kiện bất khuất chi nghĩa. Thế của nó có 6 hào đều dương, tượng của nó là thuần dương (nên nói 6 rồng, rồng thuộc về Dương). Mạnh không chi bằng Trời, Trời là Ðạo, một khí lưu hành, tuần hoàn không giáp mối, trải bao nhiêu thời gian, không gian, không ngằn mé (vô biên). Vạn vật không có một vật nào mà không đặng nó che chở, mà cũng không vật nào làm hại nó được."

    Câu 15: Vạn loại thiện ác tất kiến.

    GIẢI NGHĨA

    Vạn loại: Muôn loài sanh vật trong Càn Khôn Vũ Trụ.

    Thiện ác: Lành và dữ.

    Tất: Ðều, biết rõ.

    Kiến: Thấy, biết.

    Câu 15: Việc lành, việc dữ của muôn loài vật đều biết và thấy rõ.

    Do đó, trong Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn dạy thờ Thiên Nhãn là thờ THẦY. Thầy là Trời, là Thượng Ðế, mà theo lời nói thông thường là Trời cao có Mắt, cái gì cũng thấy rõ hết, dầu giấu giếm kín đáo đến đâu cũng không thể che được con Mắt thiêng liêng của Trời được.

  • Kinh Cúng Tứ Thời: Kinh Phật giáo

    1. Kinh Phật Giáo.

    Kinh Phật giáo
    Nhiên Ðăng Cổ Phật chí tâm qui mạng lễ

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Hỗn Ðộn Tôn Sư. Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật là vị thầy đáng kính, được sanh ra vào thời Hỗn Ðộn.
    2. Càn Khôn Chủ Tể. Ngài làm Chúa Tể Càn Khôn Vũ Trụ.
    3. Qui Thế giới ư nhứt khí chi trung. Gom 3000 Thế giới vào trong một Khí Hư Vô.
    4. Ốc trần huờn ư song thủ chi nội. Nắm giữ 72 Ðịa cầu vào trong hai bàn tay.
    5. Huệ đăng bất diệt chiếu Tam thập lục Thiên chi quang minh. Ðèn trí huệ cháy hoài không tắt, rọi 36 từng Trời cho sáng tỏ.
    6. Ðạo pháp trường lưu. Ðạo pháp như dòng nước chảy hoài không dứt.
    7. Khai cửu thập nhị tào chi mê muội. Khai hóa 92 ức nguyên nhân còn đang mê muội nơi cõi trần.
    8. Ðạo cao vô cực. Ðạo pháp cao siêu không cùng tận.
    9. Giáo xiển Hư linh. Dạy cho biết rõ cõi Hư linh.
    10. Thổ khí thành hồng nhi nhứt trụ xang Thiên Thổi ra một chất khí biến thành cái móng trời, làm một cây cột, chống vững bầu trời.
    11. Hoá kiếm thành xích nhi tam phân thác Ðịa. Biến cây kiếm thành cây thước mà 3 phân đỡ vững giềng Ðất.
    12. Công tham Thái Cực. Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật góp công cùng Ðức Chí Tôn.
    13. Phá nhứt khiếu chi Huyền quan, Tánh hiệp vô vi. Khai phá cho thông suốt một khiếu Huyền quan, để cho Chơn thần huờn Hư.(đắc đạo).
    14. Thống Tam Tài chi bí chỉ. Chưởng quản Tam Tài: Thiên, Ðịa, Nhơn, trong ý chỉ nhiệm mầu.
    15. Ða thi huệ trạch, Vô lượng độ nhơn. Nhiều lần ban bố ơn huệ, Cứu giúp người đời nhiều không kể hết.
    16. Ðại bi, Ðại nguyện, Ðại Thánh, Ðại từ. Ðức bi lớn, Lời nguyện lớn, Ðức Thánh lớn, Ðức từ lớn.
    17. Tiên Thiên Chánh Ðạo, Nhiên Ðăng Cổ Phật. Ðạo chánh có trước Trời Ðất. Ngài là Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật.
    18. Vô Vi Xiển Giáo, Thiên Tôn. Dạy dỗ cho sáng tỏ Ðạo Vô Vi, Ngài là Ðấng Thiên Tôn.

    (Lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm: Nam mô Nhiên Ðăng Cổ Phật Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát)

    Câu 1: Hỗn Ðộn Tôn Sư,.

    GIẢI NGHĨA

    Hỗn Ðộn: Hỗn là lộn xộn không rõ ràng, Ðộn là lộn lạo với nhau. Hỗn Ðộn là thời kỳ mà các chất khí còn ở trạng thái lộn lạo với nhau, chưa phân thanh trược.

    Tôn Sư: Vị thầy đáng kính. Tôn là kính trọng, Sư là thầy.

    Câu 1: Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật là vị thầy đáng kính, được sanh ra vào thời Hỗn Ðộn.

    Thời Hỗn Ðộn ở đây là thời kỳ sau khi đã xuất hiện ngôi Thái Cực rồi, đến khi Thái Cực phân ra Lưỡng Nghi Âm Dương. Ðó cũng là thời Tiên Thiên, tức là thời kỳ trước khi tạo dựng Trời Ðất.

    Như vậy, Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế (Ngôi Thái Cực) được Khí Hư Vô hóa sanh ra trước, sau đó mới hoá sanh ra Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật.

    Câu 2: Càn Khôn Chủ Tể.

    GIẢI NGHĨA

    Càn Khôn: Hai quẻ trong Bát Quái, Càn chỉ Trời, Khôn chỉ Ðất. Càn Khôn là Trời Ðất, chỉ toàn thể vũ trụ bao la, nên thường nói là Càn Khôn Vũ Trụ.

    Chủ Tể: Chủ là người đứng đầu cai quản và quyết định mọi việc trong phạm vi quyền hạn; Tể là đứng đầu. Chủ tể, còn đọc Chúa Tể là vị đứng đầu có quyền thống trị hết thảy.

    Câu 2: Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật là Ðấng Chúa Tể Càn Khôn Vũ Trụ.

    Quyền hành nầy có được là do Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế giao phó cho Ngài. Ngài thay mặt Ðấng Thượng Ðế chưởng quản cả Càn Khôn Vũ Trụ.

    Câu 3: Qui Thế giới ư nhứt khí chi trung.

    GIẢI NGHĨA

    Qui: Gom vào một chỗ.

    Thế giới: Càn Khôn Vũ Trụ của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế gồm có Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới) và Thất thập nhị Ðịa (72 Ðịa cầu). Chữ Thế giới trong câu kinh trên là chỉ 3000 Thế giới.

    Ư: Ở tại.

    Nhứt Khí: Một chất khí nguyên thủy, đó là Hư Vô chi Khí.

    Chi: Tiếng đệm.

    Trung: Ở trong.

    Câu 3: Gom 3000 Thế giới vào trong một Khí Hư Vô.

    Câu 4: Ốc trần huờn ư song thủ chi nội.

    GIẢI NGHĨA

    Ốc: còn một âm nữa là Ác, nghĩa là nắm giữ, cầm giữ.

    Trần: Bụi bặm.

    Huờn: hay Hoàn là vùng đất lớn. Trần huờn hay Trần hoàn là chỉ các cõi trần, đó là các quả Ðịa cầu có nhơn loại ở. Có tất cả 72 Ðịa cầu (Thất thập nhị Ðịa) mà Ðịa cầu của nhơn loại chúng ta đang ở là Ðịa cầu số 68. (Xem trở lại Câu 18 và 19 KNHTÐ)

    Ư: Ở tại.

    Song: Hai.

    Thủ: Tay. Song thủ là hai tay, hai tay: mặt và trái, nên Song thủ có hàm ý nói về Âm Dương: Khí Âm và Khí Dương.

    Chi: Tiếng đệm.

    Nội: Trong, ở trong.

    Câu 4: Nắm giữ 72 Ðịa cầu vào trong hai bàn tay.

    Tóm tắt 4 Câu kinh 1-2-3-4:

    Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật là vị thầy đáng kính, được sanh ra vào thời Hỗn Ðộn, làm Chúa tể Càn Khôn Vũ Trụ, tóm thâu 3000 Thế giới vào trong một Khí Hư Vô, nắm giữ 72 Ðịa cầu vào trong 2 bàn tay.

    Chúng ta nhận thấy, Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật được Ðức Chí Tôn ban cho quyền hành thay mặt Ðức Chí Tôn cai quản Càn Khôn Vũ Trụ hữu hình gồm: Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới) và Thất thập nhị Ðịa (72 Ðịa cầu).

    Câu 5: Huệ đăng bất diệt, chiếu Tam thập lục Thiên chi quang minh.

    GIẢI NGHĨA

    Huệ: Trí não sáng suốt, thường nói là Trí huệ.

    Ðăng: Cây đèn. Huệ đăng là cây đèn Trí Huệ, đốt lên để soi sáng, đẩy lui sự u mê vô minh. Huệ đăng là cây đèn Phật, đèn vô vi, đốt lên để soi sáng cái Tâm.

    Bất: Không.

    Diệt: Mất đi.

    Bất diệt: Không mất, trường tồn mãi mãi.

    Chiếu: Soi sáng.

    Tam thập lục Thiên: 36 từng Trời.

    Chi: Tiếng đệm.

    Quang: Sáng.

    Minh: Sáng.

    Quang minh: Sáng tỏ.

    Câu 5: Cây đèn trí huệ cháy hoài không tắt, rọi sáng 36 từng Trời.

    Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật có cây đèn trí huệ cháy hoài không tắt, luôn luôn chiếu sáng 36 từng Trời. Cũng vì lẽ đó mà Ðức Phật ấy có hiệu là Nhiên Ðăng.

    Câu 6: Ðạo pháp trường lưu.

    GIẢI NGHĨA

    Trường: Lâu dài.

    Lưu: Chảy, nước chảy.

    Trường lưu: Nước chảy hoài không dứt.

    Ðạo pháp: Chánh pháp của Ðạo.

    Về chữ ÐẠO, Ðức Chí Tôn có giảng giải như sau: "Ðạo, tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu vị. Ðạo là đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Ðạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm. Ðạo, nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học các nghĩa huyền bí khác cho đích xác đặng." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 3)

    (Xem thêm: Giải nghĩa chữ ÐẠO trong Kinh Tiên giáo).

    Về chữ PHÁP, ý nghĩa rất rộng. Bất kỳ việc chi, dù nhỏ dù lớn, hữu hình hay vô hình, tốt hay xấu, chơn thật hay hư ảo, đều có thể gọi là Pháp. Những nguyên tắc, những luật lệ, những qui luật trong Càn Khôn Vũ Trụ, cũng được gọi là Pháp.

    Thông thường, Giáo lý của Phật được gọi là Phật Pháp; thuyết giảng giáo lý được gọi là Thuyết pháp.

    Tóm lại, Ðạo Pháp là Chánh Pháp của Ðạo. Ai tu đúng theo đó thì nhứt định đắc quả, giải thoát khỏi luân hồi.

    Câu 6: Ðạo pháp trường lưu là Chánh pháp của Ðạo như dòng nước chảy hoài không dứt.

    Bất cứ vào thời kỳ nào, xưa cũng như nay, Chánh pháp của các nền tôn giáo mở ra như dòng nước chảy, liên tục mãi mãi, để giúp chúng sanh gội sạch bợn trần, cuốn trôi phiền não, tẩy sạch nghiệp chướng, rửa trí não vô minh ra sáng suốt, mà lần vào nơi Cực Lạc an nhàn, để mình vào chốn thanh cao, thoát khỏi cửa Luân hồi ràng buộc.

    Câu 7: Khai cửu thập nhị tào chi mê muội.

    GIẢI NGHĨA

    Khai: Mở ra.

    Cửu thập nhị: 92.

    Tào: Bọn, đám, nhóm người.

    Cửu thập nhị tào: Ý nói đám 92 ức Nguyên nhân đang còn trầm luân nơi cõi trần.

    Chi: Tiếng đệm.

    Mê muội: Mê là mơ hồ không rõ, muội là tối tăm. Mê muội là đầu óc tối tăm, không phân biệt chánh tà, thiệt giả, ...

    Nguyên nhân: Những chơn linh được sanh ra từ lúc khai Thiên, được Ðức Phật Mẫu cho đi đầu thai làm người nơi cõi trần để khai hóa cho nhơn loại được tiến bộ văn minh.

    Theo Triết lý Nhơn sinh của Ðạo Cao Ðài, với Luật Tiến Hóa của Bát Hồn, loài người đầu tiên xuất hiện trên mặt Ðịa cầu nầy là do loài động vật cao cấp khỉ vượn tiến hóa mà thành. Ðó là những Hoá nhơn, người khỉ, thủy tổ của loài người.

    Do đó, người nguyên thủy có trí não còn rất ngu khờ, tánh tình còn hung ác, nếp sống còn dã man, ăn lông ở lỗ.

    Lúc đó, Ðức Phật Mẫu vâng lịnh Ðức Chí Tôn cho 100 ức Nguyên nhân đầu thai xuống cõi trần, để khai hóa đám Hóa nhân đó, đồng thời cũng để kinh nghiệm và tiến hóa.

    Nhưng các Nguyên nhơn, khi đã mang xác phàm rồi, thì lại nhiễm trần, quên nguồn gốc và nhiệm vụ đã nhận lãnh lúc đi đầu thai, lại còn gây ra lắm tội lỗi nơi cõi trần, nên phải bị đọa luân hồi.

    Ðức Chí Tôn thấy vậy mới động mối từ tâm, mở ra Nhứt Kỳ Phổ Ðộ, để cứu giúp và dẫn dắt các Nguyên nhân trở về cựu vị. Nhưng Nhứt Kỳ Phổ Ðộ chỉ độ được 6 ức Nguyên nhân. (Ức là 100 000 ; 6 Ức là 600 000 người).

    Ðức Chí Tôn lại mở Nhị Kỳ Phổ Ðộ, gồm Tam giáo (Nho, Thích, Ðạo) và Ngũ Chi Ðại Ðạo để giáo hóa nhơn sanh tu hành, nhưng cuối cùng cũng chỉ độ được 2 ức Nguyên nhân trở về cựu vị.

    Như vậy, cả 2 thời kỳ Phổ Ðộ, Ðức Chí Tôn chỉ độ được 8 ức Nguyên nhân, còn lại 92 ức nguyên nhân vẫn đang chìm đắm nơi cõi trần.

    Ðức Chí Tôn lại mở lòng Ðại từ Ðại bi lần thứ ba và cũng là lần chót, trước khi xảy ra Ðại cuộc Tận Thế và Hội Long Hoa, để chấm dứt Hạ Nguơn Tam Chuyển, bước vào Thượng Nguơn Tứ Chuyển, và lần nầy, chính mình Ðức Chí Tôn đứng ra mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và đồng thời cũng mở ra Ðại Ân Xá Kỳ Ba, quyết độ cho hết 92 ức nguyên nhân trở về cựu vị.

    Do đó, Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật được Ðức Chí Tôn giao nhiệm vụ mở cuộc giáo hóa các nguyên nhân còn đang mê muội nơi cõi trần.

    Câu 7: Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật khai hóa đám 92 ức Nguyên nhân đang còn mê muội nơi cõi trần.

    Câu 8: Ðạo cao vô cực. Giáo xiển hư linh.

    GIẢI NGHĨA

    Ðạo: Ðạo pháp. (Xem Câu 6: Ðạo pháp trường lưu).

    Cao: Ở trên cao.

    Vô: Không.

    Cực: Chỗ đầu cùng.

    Vô cực: Không có cuối cùng, tức là không cùng tận.

    Câu 8: Ðạo pháp cao siêu không cùng tận.

    Câu 9: Giáo xiển hư linh.

    GIẢI NGHĨA

    Giáo: Dạy.

    Xiển: Mở rộng ra, làm sáng tỏ thêm.

    Hư: Trống không.

    Linh: Thiêng liêng mầu nhiệm.

    Giáo xiển là dạy rộng ra cho biết rõ thêm.

    Hư linh: Cõi không không trên thượng từng không khí, thấy trống không mà rất thiêng liêng mầu nhiệm.

    Câu 9: Dạy rộng ra cho biết rõ thêm về cõi Hư linh.

    Khi mắt phàm ta không thấy gì cả, ta bảo đó là trống không. Nói như thế là tương đối, vì mắt phàm chỉ nhìn thấy một số ánh sáng hạn hẹp mà thôi, từ ánh sáng Tím đến ánh sáng Ðỏ. Còn tia Tử ngoại (Cực tím) hay tia Hồng ngoại thì mắt ta không nhìn thấy được. Ngoài ra, mắt ta cũng không thể thấy được các vật quá bé nhỏ như con vi trùng, huống chi là thấy được các nguyên tử hay điện tử.

    Khoa học ngày nay chứng minh cho biết nhiều cái hiện hữu có thật, hữu hình hữu thể mà mắt ta không thể thấy được.

    Nói một cách tuyệt đối thì không có cái gì là trống không cả, chỉ có điều là mắt ta thấy hay không thấy mà thôi. Tuy nhiên, với cặp mắt thiêng liêng (Huệ nhãn hay Thiên nhãn) thì mọi vật đều rất rõ ràng.

    Câu 10: Thổ khí thành hồng nhi nhứt trụ xang Thiên.

    GIẢI NGHĨA

    Thổ: Phun ra, thổi ra.

    Khí: Chất khí.

    Thành: Làm nên.

    Hồng: Cái cầu vòng, cái móng trời.

    Nhi: Mà, tiếng dùng để chuyển ý.

    Nhứt trụ: Một cây cột.

    Xang: còn một âm nữa là XANH, nghĩa là chống đỡ, chống vững.

    Thiên: Trời.

    Câu 10: Thổi ra một chất khí biến thành cái móng, làm như một cây cột chống vững bầu trời.

    Câu kinh nầy ngụ ý nói về quyền pháp mầu nhiệm và cao siêu của Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật.

    Câu 11: Hóa kiếm thành xích nhi tam phân thác Ðịa.

    GIẢI NGHĨA

    Hóa: Biến thành.

    Kiếm: Cây gươm, cây kiếm.

    Thành: Làm nên.

    Xích: Cây thước.

    Nhi: Mà, tiếng dùng để chuyển ý.

    Tam phân: 3 phân của cây thước.

    Thác: Nâng, dùng 2 tay nâng một vật.

    Ðịa: Ðất.

    Thác Ðịa: là nâng đỡ giềng Ðất.

    Câu 11: Biến cây kiếm thành cây thước, mà 3 phân đủ đỡ vững giềng Ðất.

    Câu kinh nầy cũng nói lên cái quyền pháp vô biên của Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật.

    Nói về Phép Luyện Ðạo, hai câu Kinh 10 và 11 có ý nghĩa luyện cho Hậu Thiên biến thành Tiên Thiên, tức là luyện cho hữu hình trở về vô hình, tức là Huờn Hư, đắc đạo.

    * Thổ khí thành hồng nhi nhứt trụ xang Thiên, câu nầy có hàm ý nói quẻ LY của Hậu Thiên Bát Quái biến thành quẻ CÀN của Tiên Thiên Bát Quái, gọi là ÐIỀN LY:

    Quẻ LY (image here) có một vạch đứt ở giữa, điền thêm vào chỗ trống của vạch đứt đó thì nó trở thành vạch liền, và quẻ LY biến thành quẻ CÀN (image), mà Càn tượng trưng cho Trời.

    Hóa kiếm thành xích nhi tam phân thác Ðịa, có hàm ý nói quẻ KHẢM của Hậu Thiên Bát Quái biến thành quẻ KHÔN của Tiên Thiên Bát Quái, gọi là CHIẾT KHẢM:

    Quẻ KHẢM (image) có một vạch liền ở giữa, nếu chặt cho nó đứt ra làm hai đoạn thì ta được quẻ KHÔN (image) có 3 vạch đều đứt đoạn, mà Khôn tượng trưng cho Ðất.

    Khi đã CHIẾT KHẢM và ÐIỀN LY thì Hậu Thiên Bát Quái biến thành Tiên Thiên Bát Quái. Luyện được như vậy thì đắc đạo.

    Câu 12: Công tham Thái Cực.

    GIẢI NGHĨA

    Công: Nỗi vất vả khó nhọc làm nên việc.

    Tham: Góp mặt vào, tham dự.

    Thái cực: chỉ Ðức Chí Tôn.

    Câu 12: Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật góp công cùng Ðức Chí Tôn.

    Ðức Chí Tôn nắm cơ Tạo Hóa, Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật nắm cơ Giáo Hóa. Cái công Giáo hóa cũng bằng cái công sanh hóa. (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Cái công giáo hóa cũng đồng sanh.)

    Câu 13: Phá nhứt khiếu chi Huyền quan, Tánh hiệp vô vi.

    GIẢI NGHĨA

    Phá: Làm vỡ ra.

    Nhứt: Một.

    Khiếu: Cái lỗ hổng.

    Chi: Tiếng đệm.

    Huyền: Sâu kín, huyền diệu.

    Quan: Cái cửa ải.

    Nhứt khiếu chi huyền quan: Một cái Khiếu Huyền quan, tức là một cái lỗ sâu kín làm cửa ải trong thân thể con người, nó ngăn lại, khó mở ra được, làm cho con người mê muội vô minh. Tu luyện là cốt để khai thông cái cửa ải nầy. Khiếu Huyền Quan nầy mà được mở hoát ra thì đắc đạo.

    Trong Kinh Huyền Diệu Cảnh, tác giả Ly Trần Tử viết rằng:

    "Trong mấy khiếu duy có một cái Khiếu Huyền Quan là Chúa tể. Ví dụ Huyền Quan là vua một nước, Tam quan Tam điền tỷ như Lục Bộ Thượng Thơ, 9 Khiếu kia phía trước phía sau ví như quan văn tướng võ, những cái lỗ nhỏ chơn lông ví như muôn dân. Nếu như chẳng có Khiếu Huyền Quan thì cũng như nước không vua, nhà không chủ, dân chúng phải điêu đứng khổ sở.

    Thân con người mà không có Khiếu Huyền Quan thì cái thân không chủ, tức nhiên Thần phải mệt, Khí phải bị hại, ắt bị mê muội theo tửu điếm thanh lâu, thì làm sao sống lâu cho được, vì Tinh Khí Thần hao mòn lần lần.

    Người tu luyện phải đem hết Chơn tâm Thực ý (Lòng ngay ý thiệt) mà luyện cho đến lúc hư cực. Ðược như vậy cũng như cái cây trăm thước mà mình đã leo đến mức chót, nhưng phải rán lên cao hơn nữa thì Huyền Quan Nhứt Khiếu mới tự nhiên xuất hiện.

    Huyền Quan màu như sương tuyết. Luyện Huyền Quan hóa ra Kim Ðơn, hơi nó đỏ như màu châu sa, hơi nó sáng chói như màu thủy ngân. Nó không chân mà đi được, không hình mà động được, hễ tụ thì có, tán thì không còn, nên Huyền Quan Kim Ðơn hiện ra hay ẩn ẩn, thiệt là mầu nhiệm, không thể tả hết được.

    Cho nên có câu: Thiên đắc nhứt dĩ thanh, Ðịa đắc nhứt dĩ ninh, Nhơn đắc nhứt dĩ Thánh." (Trời được một thì trong, Ðất được một thì yên, Người được một thì thành Thánh). Ðược một đó là được một Khiếu Huyền Quan, được món Kim Ðơn.

    Kinh Kim Cang: Nhứt hiệp tướng bất khả thuyết. Nghĩa là: Âm Dương hiệp lại thành Kim đơn, khó tả khó nói cho rõ được.

    Sách Ðại Học: Chí thiện chi Ðịa. Nghĩa là: Chỗ đất tốt hơn hết, không chi bì kịp.

    Kinh Dịch nói: Huỳnh trung thông lý. Nghĩa là: Giữa Huỳnh Ðình thì thông lẽ nhiệm mầu.

    Ðó là những tên đặt ra cho nhiều, kể chẳng hết, chớ chung cuộc cũng chỉ cái Huyền Quan Nhứt Khiếu ấy mà thôi."

    Ngài Bảo Pháp Nguyễn trung Hậu, trong sách THIÊN ÐẠO của Ngài, có giải về Huyền Quan Khiếu, trang 125-126, như sau:

    "Người tu hành, chừng nào luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần huờn Hư, luyện Hư huờn Vô, thì Huyền Quan Nhứt Khiếu ấy mở hoát ra.
    Huyền Quan Nhứt Khiếu ấy là chi? Là Thiên Nhãn vậy. Nó ở ngay Nê Hoàn Cung, gom trọn Chơn Dương chánh đạo. . . .
    Khi Tâm người đi đến chỗ Hư không rồi, thì Huyền Quan Nhứt Khiếu được mở hoát ra, tức là Thiên Nhãn đó, ấy là ngôi Thái Cực. Chừng ấy, sự hiểu biết không lo nghĩ mà biết, không học tập mà hay. Cái biết đó vốn có sẵn từ mấy kiếp trước, nay nhờ tu tỉnh mà được xuất hiện ở kiếp nầy, nhà tôn giáo gọi là Phát Huệ."

    Tánh hiệp vô vi: Hiệp là hợp lại, Vô vi là không làm, nghĩa thường dùng là vô hình vô ảnh nhưng rất huyền diệu.

    TÁNH: Theo Phật giáo, Tánh là cái bản thể chơn thật của mình vốn sáng suốt, an lạc, trong lặng. Tánh là cái nguyên lý chẳng dời đổi, chẳng tiêu mất như: Thiện tánh, Phật tánh.

    Theo Thiền Tông thì cái Bổn lai Tự Tánh của ta tức cái Bổn lai Diệu giác Chơn tâm, cũng là cái Bổn lai Diện Mục.

    Ðức Lục Tổ Huệ Năng nói kệ về Tánh:

    Nào dè Tánh mình vốn tự nhiên trong sạch,
    Nào dè Tánh mình chứa đầy đủ muôn Pháp,
    Nào dè Tánh mình vốn không lay động,
    Nào dè Tánh mình có thể sanh ra muôn Pháp.

    Nếu chẳng biết Bổn Tâm thì học Pháp vô ích, bằng biết Bổn Tâm và thấy Bổn Tánh mình, tức gọi là Phật.

    Trong Ðạo Cao Ðài, Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng về Tâm và Tánh:

    "Nhà Nho nói: Tánh tự Tâm sanh. (Cái Tánh từ cái Tâm sanh ra). Ðó là lý thuyết của Ðạo Nho. Chỉ biết có một điều là ta quan sát có thể thấy hiện tượng mà tả trạng hình được, vì Ðạo Nho chưa phải là một tôn giáo huyền bí.

    Còn Ðức Chí Tôn dạy ta biết rằng: Tánh là chơn tướng của Chơn Thần, còn Tâm là chơn tướng của Chơn linh.

    Ðức Chí Tôn dạy: Tánh của mỗi chúng ta là hình thể thứ nhì của ta. Hình thể thứ nhứt là Tâm, tức Chơn linh; thứ nhì là Tánh tức Chơn Thần; thứ ba là xác phàm thú chất nầy.

    Ðức Chí Tôn hỏi: Tại sao từ trước đến giờ, theo Triết lý Ðạo Nho lấy nghĩa "Tánh tự Tâm sanh" mà tả ra? Bởi vì nó liên quan mật thiết cùng nhau. Trong Tâm mình như thế nào thì xuất Tánh ra y như vậy. Nhà Nho thấy hiện tượng mà đặt tên, còn Ðức Chí Tôn chỉ rõ cho biết: Chơn thần cũng tấn bộ như Chơn linh. Mỗi cá nhân đều có 2 năng lực ấy, có đủ quyền năng đào tạo ra hình hài xác thịt ta. Một Chơn linh cao trọng tự nhiên có một Chơn thần cao trọng."

    Tánh hiệp vô vi là đem Tánh hiệp với Hư Vô, tức là huờn Hư. Nói cách khác, luyện Chơn thần huờn Hư (vì Tánh là Chơn thần), Tinh Khí Thần hiệp nhứt, đắc đạo.

    Câu 13: Khai phá một Khiếu Huyền Quan cho thông suốt thì cái Tánh được huờn Hư, tức là Tinh Khí Thần hiệp nhứt, tạo được Chơn thần huyền diệu, đắc đạo.

    Câu 14: Thống Tam Tài chi bí chỉ.

    GIẢI NGHĨA

    Thống: Trông coi bao gồm tất cả.

    Tam Tài: 3 Tài là Thiên, Ðịa, Nhơn (Trời, Ðất, Người).

    Chi: Tiếng đệm.

    Bí: Kín đáo, bí mật.

    Chỉ: Ý định, ý chỉ, ý hướng.

    Bí chỉ: Ý chỉ bí mật, ý chỉ nhiệm mầu.

    Câu 14: Chưởng quản cả Tam Tài: Thiên, Ðịa, Nhơn, trong một ý chỉ nhiệm mầu.

    Ý nói: Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật chỉ dùng tư tưởng mà thống quản cả Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

    Câu 15: Ða thi huệ trạch, Vô lượng độ nhơn.

    GIẢI NGHĨA

    Ða: Nhiều.

    Thi: Làm, thi hành, sắp đặt làm ra.

    Huệ: Ơn huệ, cái ơn làm cho người khác.

    Trạch: Ơn huệ.

    Ða thi huệ trạch: Nhiều lần ban bố ơn huệ.

    Vô: Không.

    Lượng: Ðo lường, số lượng.

    Ðộ: Cứu giúp.

    Nhơn: Người.

    Vô lượng độ nhơn: Cứu giúp người đời nhiều không kể hết.

    Câu 15: Nhiều lần ban bố ơn huệ cho nhơn sanh, cứu giúp người đời nhiều không kể hết.

    Câu 16: Ðại bi, Ðại nguyện, Ðại Thánh, Ðại từ.

    GIẢI NGHĨA

    Ðại: Lớn.

    Bi: Lòng trắc ẩn thương cảm các cảnh khổ não của chúng sanh, lúc nào cũng muốn cứu vớt chúng sanh ra khỏi phiền não và tai họa.

    Ðại bi là Ðức bi lớn.

    Nguyện: Lời thề hứa chắc với bản thân mình để mình cố gắng thực hiện cho kỳ được mới nghe.

    Ðại nguyện là lời nguyện lớn. Phật vì thương xót chúng sanh, nên mỗi vị đều có phát ra lời Ðại nguyện:

    - Ðức Phật A-Di-Ðà có phát ra 48 lời Ðại nguyện.
    - Ðức Quan Âm Bồ Tát có phát ra 12 lời Ðại nguyện.
    - Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát có phát ra lời Ðại nguyện là: Cứu độ hết các chơn hồn tội lỗi nơi cõi U Minh.

    Ðại Thánh: Ðức Thánh lớn.

    Từ: Lòng thương yêu của người trên đối với kẻ dưới, lòng thương yêu của Phật đối với chúng sanh.

    Ðại từ là Ðức từ lớn.

    Sách Dưỡng Tử có câu: "Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử." Nghĩa là: Phật thương chúng sanh như mẹ thương con.

    Câu 17: Tiên Thiên Chánh Ðạo, Nhiên Ðăng Cổ Phật.

    GIẢI NGHĨA

    Tiên Thiên: Trước khi tạo dựng Trời Ðất.

    Chánh Ðạo: Ðạo chơn chánh.

    Tiên Thiên Chánh Ðạo: Cái Ðạo chơn chánh có trước Trời Ðất. (Xem giải thích chi tiết chữ Ðạo trong phần Giải Nghĩa Kinh Tiên giáo).

    Câu 17: Cái Ðạo chơn chánh có trước Trời Ðất, Ngài là Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật, vị Phật xưa nhứt.

    Câu 18: Vô Vi Xiển Giáo, Thiên Tôn.

    GIẢI NGHĨA

    Vô Vi: Không hình ảnh, không sắc tướng. Trái với Vô Vi là Hữu hình. (Xem giải thích chi tiết trong phần Giải Nghĩa Kinh Tiên giáo).

    Xiển: Mở rộng ra, làm sáng tỏ thêm.

    Giáo: Dạy.

    Xiển Giáo: Dạy cho sáng tỏ, hiểu biết rõ ràng.

    Thiên Tôn: Nghĩa đen là được tôn kính nơi cõi Trời, nhưng ở đây là chỉ phẩm tước do Ðức Chí Tôn phong thưởng. Ðức Chí Tôn là Ðại Thiên Tôn. Ðức Chí Tôn phong thưởng cho các Ðấng khác là Thiên Tôn.

    Câu 18: Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật là một Ðấng Thiên tôn, dạy cho sáng tỏ Ðạo Vô Vi.

    CHÚ Ý: Không nên lầm lộn chữ Xiển giáo trong bài Kinh Phật giáo nầy với chữ Xiển giáo trong Truyện Phong Thần.

    Trong Truyện Phong Thần, Xiển giáo là Chánh đạo, đối nghịch với Triệt giáo là Tả đạo Bàng môn.

  • Kinh Cúng Tứ Thời: Kinh Tiên giáo

    1. Kinh Tiên giáo.

    Kinh Tiên giáo
    Thái Thượng chí tâm qui mạng lễ

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Tiên Thiên khí hóa, Thái Thượng Ðạo Quân. Khí Tiên Thiên hóa sanh ra Ðức Thái Thượng Ðạo Quân.
    2. Thánh bất khả tri, Không thể biết rõ hết sự thiêng liêng mầu nhiệm của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân.
    3. Công bất khả nghị. Công đức của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân to lớn không thể nào luận bàn cho hết được.
    4. Vô Vi cư Thái Cực chi tiền. Ðạo Vô Vi ở trước ngôi Thái Cực.
    5. Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng. Trong thời Hữu thỉ, Ðức Thái Thượng đứng trên hết các vị Tiên.
    6. Ðạo cao nhứt khí diệu hóa Tam Thanh. Ðạo pháp của Ðức Thái Thượng rất cao siêu. Ngài có thể lấy một Nguơn khí của Ngài biến hóa thành 3 người khác rất huyền diệu, gọi là Tam Thanh.
    7. Ðức hoán Hư linh, Cái Thánh đức của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân sáng rực nơi cõi Hư linh.
    8. Pháp siêu quần Thánh. Ðạo pháp của Ngài vượt lên trên các bực Tiên, Thánh.
    9. Nhị ngoạt thập ngũ, phân tánh giáng sanh. Ngày rằm tháng hai, Ðức Thái Thượng chiết chơn linh giáng sanh xuống cõi trần là Ðức Lão Tử.
    10. Nhứt thân ức vạn, diệu huyền thần biến. Một thân mà có thể biến hóa thành hằng vạn người khác, sự biến hóa vô cùng huyền diệu.
    11. Tử khí đông lai, Quảng truyền Ðạo Ðức. Một đám mây màu tím từ hướng Ðông bay tới, Truyền bá rộng rãi sách Ðạo Ðức Kinh.
    12. Lưu sa tây độ, Pháp hóa tướng tông. Khi Ðức Lão Tử đi qua vùng sa mạc ở hướng Tây để cứu giúp người đời, Ðức Lão Tử truyền Kinh Ðạo Ðức cho Ông Doãn Hỷ, kể từ đó Tiên giáo mới thành hình tướng.
    13. Sản Tất Viên, Phương Sóc chi bối. Sản xuất ra các Ông Trang Tử và Ðông Phương Sóc.
    14. Ðơn tích vi mang. Việc luyện Kim Ðơn (của Ðạo Tiên) phân tích nói cho rõ ra thì thật là huyền vi mầu nhiệm.
    15. Khai Thiên Ðịa Nhơn Vật chi tiên. Khi mở ra Trời Ðất, Ðức Thái Thượng Ðạo Quân là Ðấng có trước loài người và loài vật.
    16. Ðạo kinh hạo kiếp. Ðạo trải qua nhiều kiếp lâu đời.
    17. Càn Khôn oát vận. Trời Ðất xoay chuyển vận hành.
    18. Nhựt nguyệt chi quang. Ðạo như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, soi sáng khắp nơi.
    19. Ðạo pháp bao la. Ðạo Pháp bao la, nghĩa là Ðạo Pháp rộng lớn mênh mông như tấm lưới lớn bao trùm lên tất cả.
    20. Cửu Hoàng Tỹ Tổ. Cửu Hoàng Tỹ Tổ là Ðức Thái Thượng Ðạo Quân là Thủy tổ của 9 vị vua đầu tiên khai hóa nhơn loại, và cũng là Thủy tổ của nhơn loại.
    21. Ðại thiên Thế giới, dương tụng từ ân. Cả ba ngàn Thế giới, mọi người đều ca tụng đề cao lòng từ bi và ơn đức của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân.
    22. Vĩnh kiếp quần sanh, ngưỡng kỳ huệ đức. Chúng sanh vĩnh viễn đời đời ngưỡng nhờ ơn đức của Ngài.
    23. Ðại Thần, Ðại Thánh, Chí Cực, Chí Tôn. Bực Thần lớn, bực Thánh lớn, cao tột, rất được tôn kính.
    24. Tiên Thiên Chánh nhứt, Thái Thượng Ðạo Quân, Chưởng Giáo, Thiên Tôn. Vào thời Tiên Thiên, Ðức Thái Thượng Ðạo Quân là Ðấng thứ nhứt đứng đầu Ðạo Tiên, và Ngài là Giáo chủ Ðạo Tiên. Ngài là Ðấng Thiên Tôn.

    (Lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm: Nam mô Thái Thượng Ðạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn)

    Câu 1: Tiên Thiên khí hóa, Thái Thượng Ðạo Quân.

    GIẢI NGHĨA

    Tiên Thiên: Trước khi tạo dựng Trời Ðất.

    Khí: Chất khí.

    Hóa: Hóa sanh.

    Khí Tiên Thiên: Chất khí có trước khi tạo dựng Trời Ðất. Sau khi Hư Vô chi Khí hóa sanh Ðức Chí Tôn thì khí Hư Vô được gọi là khí Tiên Thiên. Chính khí Tiên Thiên nầy hóa sanh ra Ðức Thái Thượng Ðạo Quân.

    Câu 1: Khí Tiên Thiên hóa sanh ra Ðức Thái Thượng Ðạo Quân.

    Ðức Thái Thượng Ðạo Quân là vị Tiên đầu tiên trong Càn Khôn Vũ Trụ, làm chủ Tiên đạo, và làm đầu các vị Tiên.

    Theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh, Ðức Thái Thượng Ðạo Quân hiện xuống cõi trần rất nhiều lần.

    * Vào thời Thái cổ:
    Ðời vua Thiên Hoàng, Ngài là Bàn Cổ.
    Ðời vua Ðịa Hoàng, Ngài là Vạn Pháp Thiên Sư.
    Ðời vua Nhơn Hoàng, Ngài là Ðại Thanh Tử.

    * Vào thời Thượng cổ:
    Ðời vua Phục Hy, Ngài là Huất Hoa Tử.
    Ðời vua Thần Nông, Ngài là Xích Tòng Tử.
    Ðời vua Huỳnh Ðế, Ngài là Quảng Thành Tử.

    Ðức Thái Thượng Ðạo Quân, do khí Tiên Thiên hóa sanh, nên Ngài có pháp lực vô biên, biến hóa vô cùng, khi hiện xuống cõi trần để giáo hóa nhơn sanh, khi trở về cõi Thượng Thiên, nhưng không đầu thai xuống trần.

    Mãi đến đời nhà Thương bên Tàu, Ngài mới đầu thai xuống trần. Việc đầu thai của Ngài cũng rất kỳ diệu.

    Ðời vua Bàn Canh nhà Thương (1401 trước Tây lịch), có một nàng con gái gọi là Ngọc Nữ, mới vừa 8 tuổi (theo sách Ðông Du Bát Tiên), con của một gia đình đạo đức, ra chơi sau vườn, thấy cây Lý có một trái to chín đỏ, cô liền hái ăn. Ăn xong, nàng cảm thấy mỏi mệt và có thai.

    Người cha thấy sự lạ, bèn toán quẻ Âm Dương, biết là có một vị Ðại Tiên giáng sanh, nên không phiền hà gì cả và nuôi con gái rất kỹ. Nhưng nàng chịu mang thai như vậy cho đến già. Ðến năm nàng được 80 tuổi, trở thành bà già, tức là nàng đã mang thai ngót 72 năm, lúc đó là đời vua Võ Ðinh (1324 trước Tây lịch) nhà Thương, bà Ngọc Nữ thấy trăng tỏ, bèn đi dạo sau vườn. Khi đi ngang qua cây Lý khi xưa thì đứa con từ trong bụng mẹ theo nách mẹ nhảy ra ngoài. Bà Ngọc Nữ kinh hãi, coi thấy nách mình liền lại như thường, không đau đớn chi cả.

    Ðứa con nhảy ra, đã ở trong bụng mẹ 72 năm nên đầu đã bạc trắng, do đó mới gọi là Lão Tử (con già). Lúc đó là giờ Sửu, ngày Rằm tháng 2 năm Canh Thìn, đời vua Võ Ðinh. Lão Tử chỉ cây Lý bảo rằng đó là họ của Ngài, lại xưng hiệu là Lão Ðam, tự là Bá Ðương, lại mỗi tai có 3 lỗ ở bên trong nên còn gọi lá Lý Nhĩ.

    Cội Lý, nơi giáng sanh của Lão Tử, ở tại xóm Khúc Nhơn, làng Lại, huyện Khổ, nước Sở.

    Ngài có miệng rộng, răng thưa, thiên đình cao, râu tốt, mắt vắn, tai dài, sóng mũi cao như chẻ hai, trên trán có chỉ như 3 chữ Tam Thiên.

    Câu 2: Thánh bất khả tri,

    GIẢI NGHĨA

    Thánh: Thiêng liêng mầu nhiệm.

    Bất khả: Không thể.

    Tri: Biết, hiểu biết.

    Câu 2: Không thể biết rõ hết sự thiêng liêng mầu nhiệm của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân.

    Ðức Thái Thượng Ðạo Quân do khí Tiên Thiên hóa sanh, là vị Tiên lớn nhứt đứng đầu các vị Tiên, nên quyền pháp của Ngài cao siêu vô cùng, thiên biến vạn hóa, không ai có thể biết rõ được.

    Câu 3: Công bất khả nghị.

    GIẢI NGHĨA

    Công: Nỗi vất vả khó nhọc làm việc.

    Bất khả: Không thể.

    Nghị: Luận bàn.

    Câu 3: Công đức của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân to lớn không thể nào luận bàn cho hết được.

    Từ khi có loài người xuất hiện trên cõi trần đến nay, không có thời nào mà Ðức Thái Thượng Ðạo Quân không hiện xuống cõi trần để giáo hóa và cứu độ nhơn sanh. Công đức của Ngài từ đó đến nay nhiều vô lượng, không thể nào kể cho hết hay luận bàn được.

    Câu 4: Vô Vi cư Thái Cực chi tiền.

    GIẢI NGHĨA

    Vô Vi: là một đạo lý mà Ðức Lão Tử đặc biệt đề cao.

    Cư: Ở, nơi ở.

    Thái Cực: Ngôi của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

    Chi: Tiếng đệm.

    Tiền: Trước.

    Câu 4: Ðạo Vô Vi ở trước ngôi Thái Cực.

    Ðối với Ðức Lão Tử, Vô Vi là một đạo lý. Ngài cho rằng, bản chất của "ÐẠO" là Vô Vi. Ðạo thường vô vi nhi vô bất vi. Nghĩa là: Ðạo thường là không làm, mà không gì là không làm được.

    "Không làm" vì theo quy luật tự nhiên, trơn tru không vướng mắc, mọi thứ đều tỏ sức sống cường kiện, như trăm hoa gặp khí Dương của mùa Xuân, tự nhiên đúng kỳ hoa nở.

    Ðạo Trời Vô Vi, chỉ đem lợi cho muôn vật: Ðạo Trời lợi mà không hại, đạo Thánh nhân làm mà không tranh, tức là không hề chú ý đến quyền lợi cá nhân, chỉ mong có sự đóng góp tạo sự chuyển hóa cho vạn vật.

    Vô Vi là một chủ trương được Ðức Lão Tử đề cao trong sách Ðạo Ðức Kinh. Ngài muốn đem chủ nghĩa Vô Vi áp dụng vào công việc Tu thân và cả đến việc Chánh trị nữa.

    - Về Tu thân, Vô Vi không phải là sống nhàn cư vô sự, ăn bám xã hội, mà chính là sống cuộc đời cao siêu, huyền hóa với Trời.

    Liệt Tử định nghĩa Vô Vi là hoạt động siêu việt.

    Trang Tử định nghĩa Vô Vi là hoạt động của Trời Ðất.

    Vô Vi là để trở về khế hợp với bổn căn bổn tánh, hiệp nhập vào Thượng Ðế. Vô Vi là nhập Ðại Ðịnh, là giai đoạn chót của khoa Tịnh luyện để đắc đạo.

    Cho nên cõi Vô Vi là cõi Trời, cõi thiêng liêng tuyệt đối vô hình. Cõi Vô Vi chính là Niết Bàn của Phật.

    Trái với Vô Vi là Hữu Vi, là cõi Hữu hình sắc tướng.

    Muốn đạt tới Vô Vi thì phải bắt đầu từ Hữu Vi. Không có con đường tắt. Từ Hữu hình sắc tướng mới đi riết tới, lần lần giũ sạch những cái Hữu vi thì sẽ đạt đến Vô Vi, tức là Niết Bàn vậy.

    Ngài Tiếp Pháp Trương văn Tràng, trong quyển Giáo Lý, giải thích về Vô Vi như sau:

    "Vô Vi nghĩa là không hành động theo ngoại giới, mà chỉ hồi hướng về nội giới tâm linh, sưu tầm giác ngộ lẽ huyền nhiệm của Tâm lý và Sinh lý.

    Cho nên Ðạo Ðức Kinh chương 28 nói rằng: Vi Ðạo nhựt tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi. Nghĩa là: Học Ðạo thì mỗi ngày mỗi giảm bớt, và giảm bớt nữa cho đến chỗ Vô Vi.

    Không làm nhưng chẳng phải khô khan như cây khô hay cục đá, mà thật là phải giữ một tâm trạng hồn nhiên, như đứa trẻ chưa biết cười (anh nhi chi vị hài), cho nên nói rằng: Ðạo thường vô vi nhi vô bất vi, nghĩa là: Ðạo thường là Vô Vi, nhưng chẳng có việc gì không làm. Tại sao? Bởi lẽ kẻ học Ðạo phải làm những việc chưa đến, phải lo những việc chưa xảy ra (Vi vô vi, sự vô sự)."

    Câu 5: Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng.

    GIẢI NGHĨA

    Hữu: Có.

    Thỉ: hay Thủy là bắt đầu.

    Siêu: Vượt lên trên.

    Quần: Nhiều người tụ họp đông đảo.

    Chơn: hay Chân là thực, có thật. Trong Tiên giáo, Chơn là những vị tu hành đắc quả thành Tiên, và được gọi là Chơn Nhơn (Người Chơn).

    Chi: Tiếng đệm.

    Thượng: Ở trên.

    Hữu thỉ: Có bắt đầu, tức là có nguồn gốc. Khi Trời Ðất đã an ngôi rồi thì bắt đầu từ đó trở về sau được gọi là thời Hữu Thỉ, vì Trời Ðất là Âm Dương, như cha mẹ, hóa sanh ra muôn loài vạn vật. Như vậy, Âm Dương là cái bắt đầu của vạn vật.

    Trước thời Hữu thỉ là thời Hỗn Mang, chỉ có Hư Vô chi Khí, mà không ai biết được nguồn gốc của nó do đâu mà có, nên thời nầy được gọi là thời Vô thỉ, nghĩa là không có nguồn gốc phát sanh.

    Câu 5: Trong thời Hữu thỉ, Ðức Thái Thượng đứng trên hết các vị Tiên.

    Câu 6: Ðạo cao nhứt khí diệu hóa Tam Thanh.

    GIẢI NGHĨA

    Ðạo cao: Ðạo pháp cao siêu.

    Nhứt khí: Một chất khí. Ðó là chất khí Tiên Thiên, cũng gọi là Nguơn khí hay Nguyên khí (chất khí đầu tiên), khí nầy biến hóa rất huyền diệu.

    Diệu: Khéo léo, huyền diệu.

    Hóa: Biến đổi.

    Diệu hóa: Biến hóa rất huyền diệu.

    Tam: 3.

    Thanh: Cao quí.

    Tam Thanh: 3 Thanh, gồm: Thái Thanh, Thượng Thanh và Ngọc Thanh. Tam Thanh ấy tượng trưng Tam Bửu (Tinh Khí Thần) của con người: Ngọc Thanh là Tinh, Thượng Thanh là Khí, Thái Thanh là Thần. Một biến thành Ba, Ba hiệp lại thành Một.

    Câu 6: Ðạo pháp của Ðức Thái Thượng rất cao siêu. Ngài có thể lấy một Nguơn khí của Ngài biến hóa thành 3 người khác rất huyền diệu, gọi là Tam Thanh.

    Theo Truyện Phong Thần, Ðức Lão Tử giúp cho Khương Thượng Tử Nha (học trò của Ðức Nguơn Thỉ) phá trận Tru Tiên, do Thông Thiên Giáo chủ Triệt giáo lập ra để đánh các Tiên Xiển giáo. Trong trận nầy, Thông Thiên Giáo chủ bố trí phép thuật rất ác liệt, hung dữ và cao cường đến nỗi các vị Tiên cấp dưới không thể phá được.

    Ðức Lão Tử một mình đi vào trận ở cửa Tây. Ngài xuất Tam Hoa che phủ trên đầu, lại còn hóa Linh Lung Tháp, hào quang chiếu diệu, đánh phép cùng các Ðịa Tiên trong trận. Thấy thế trận chưa núng, vì chỉ đánh vào một cửa, Ðức Lão Tử liền dùng một Nguyên Khí huyền diệu của Ngài hóa ra Tam Thanh, tức là hóa ra 3 người nữa để xông vào đánh 3 cửa trận còn lại.

    * Xảy đâu có một vị Ðại Tiên, đội mão Ðạo, mặc áo hồng bào, xưng là Ngọc Thanh Ðạo Nhơn, đánh vào cửa trận phía Nam, vừa đánh vừa ca bài kệ:

    Trời Ðất sanh thành đã có Ta,
    Theo Thầy học đạo kể hằng hà.
    Thấy điều nghịch lý ra tay giúp,
    Cho rõ hai bên lẽ Chánh Tà.

    * Xảy nghe bên Ðông có một vị Ðại Tiên nữa, đầu đội mão vàng, mặc áo Bát Quái, xưng là Thượng Thanh Ðạo Nhơn, đánh vào trận ở cửa Ðông, vừa ca bài kệ:

    Hồng Quân Lão Tổ dạy vuông tròn,
    Bố hóa Côn Lôn rõ mực son.
    Trời Ðất tuy già, Ta chẳng thác,
    Nước non dầu đổi, tánh hằng còn.

    * Rồi bên phía Bắc, cũng có một vị Ðại Tiên, xưng là Thái Thanh Ðạo Nhơn, đánh vào cửa trận phía Bắc, vừa ca:

    Từ thuở sanh Ta lúc Hỗn Mang,
    Tính năm kể tháng biết muôn ngàn.
    Một bầu Tạo hóa dầu ngang dọc.
    Những kẻ Bàng môn khá tỏ tàng.

    Như thế, Ðức Lão Tử đã dùng Nguyên Khí huyền diệu của Ngài hóa ra 3 vị Ðại Tiên gọi là Tam Thanh, để hợp với Ngài nữa là 4, cùng xông vào đánh 4 cửa của trận Tru Tiên.

    Khi ấy, 4 vị vây Thông Thiên Giáo chủ đánh vùi một trận. Thông Thiên Giáo chủ đánh không lại, chỉ lo đỡ gạt thôi.

    Ba vị Tam Thanh vừa tiếp sức với Ðức Lão Tử đánh Thông Thiên Giáo chủ, là do Ðức Lão Tử làm phép dùng Nguyên Khí biến hóa ra, chỉ trong một giờ là tan mất. Ðức Lão Tử chỉ muốn làm cho Thông Thiên Giáo chủ rối trí và cảm thấy yếu thế để sau nầy dễ đánh mà thôi.

    Thấy phép gần mãn, Ðức Lão Tử ngâm bài kệ:

    Hồng Quân truyền phép đạo đa thành,
    Làm chủ Thần Tiên, độ chúng sanh.
    Biến thử ba hình, ai dễ biết,
    Cho hay Nguyên Khí hóa Tam Thanh.

    Lão Tử ngâm kệ vừa dứt, nghe tiếng chuông inh ỏi, 3 vị Tam Thanh đồng biến mất, chỉ còn lại một mình Lão Tử. Thông Thiên Giáo chủ thất kinh nhìn sững, bị Lão Tử đập cho một gậy đổ hào quang, hoảng sợ, đằng vân bay mất.

    Ðó là sự tích chép ra từ Truyện Phong Thần để hiểu về ý nghĩa của câu Kinh: "Ðạo cao nhứt khí, diệu hóa Tam Thanh."

    Câu 7: Ðức hoán Hư linh,

    GIẢI NGHĨA

    Ðức: Những việc làm hợp lòng người, thuận đạo Trời.

    Hoán: Sáng rực rỡ.

    Hư linh: Cõi Hư Vô thiêng liêng. Ðó là cõi không không tuyệt mù trên thượng từng không khí mà thường gọi là cõi Thiêng liêng Hằng sống.

    Câu 7: Cái Thánh đức của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân sáng rực nơi cõi Hư linh.

    Câu 8: Pháp siêu quần Thánh.

    GIẢI NGHĨA

    Pháp: Ðạo pháp. Cái quyền pháp của đạo.

    Siêu: Vượt lên trên.

    Quần: Nhiều người.

    Thánh: Bực Thánh, chỉ chung các Ðấng Tiên, Thánh.

    Câu 8: Ðạo pháp của Ngài vượt lên trên các bực Tiên, Thánh.

    Câu 9: Nhị ngoạt thập ngũ, phân tánh giáng sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Nhị ngọat: Tháng hai âm lịch. Chữ Ngoạt còn đọc là Nguyệt, có 2 nghĩa: Một nghĩa là Mặt trăng, một nghĩa là tháng âm lịch, vì âm lịch tính theo sự di chuyển của Mặt trăng.

    Thập ngũ: Ngày 15 tức là ngày Rằm.

    Phân: Chia ra, chiết ra.

    Tánh: Ðối với con người, Tâm và Tánh có chỗ khác nhau, Tâm thì ở bên trong, Tánh thì thể hiện bên ngoài. Nhưng đối với các Ðấng Tiên, Phật thì Tâm và Tánh hiệp làm một, hiệp nhứt với Chơn linh, hòa vào khối Ðại Linh Quang của Thượng Ðế.

    Giáng: Ði xuống.

    Sanh: Sanh ra.

    Giáng sanh: Ði xuống cõi trần, đầu thai vào bụng mẹ để được sanh ra làm người nơi cõi trần.

    Câu 9: Ngày rằm tháng hai, Ðức Thái Thượng chiết chơn linh giáng sanh xuống cõi trần là Ðức Lão Tử.

    Như phần trước, chúng ta nói là Ðức Lão Tử giáng sanh vào đời vua Võ Ðinh nhà Thương bên Tàu. Vua Võ Ðinh lên ngôi năm 1324 trước Tây lịch, và truyền ngôi lại cho Tổ Canh năm 1265 trước Tây lịch.

    Ðiều nầy rất phù hợp với 4 câu thơ của Ðức Lão Tử giáng cơ khoán thủ tự giới thiệu:

    LÝ đào mầm tược tượng long lân,
    LÃO luyện đơn thành Nhị xác thân.
    TỬ phủ ngồi tu lo nấu thuốc,
    GIÁNG sanh Thương, đợi Võ Ðinh quân. (Thương là nhà Thương, Võ Ðinh quân là vua Võ Ðinh)

    Nhưng theo Sử Ký của Tư Mã Thiên, câu chuyện Ðức Khổng Tử đến hỏi Ðức Lão Tử về Lễ, thì người ta cho rằng Ðức Lão Tử cùng thời với Ðức Khổng Tử, và lớn hơn Ðức Khổng Tử chừng 30 tuổi, và như vậy, Ðức Lão Tử cũng phải sanh vào thời Ðông Châu Liệt Quốc.

    Nếu theo Truyện Ðông Du Bát Tiên và Bài thi giáng cơ của Ðức Lão Tử, chúng ta tạm lấy năm sanh của Ðức Lão Tử là năm vua Võ Ðinh lên ngôi: năm 1324 trước Tây lịch, thì Ðức Lão Tử giáng sanh trước Ðức Khổng Tử là:

    1324 - 551 = 773 năm

    Như vậy, chẳng lẽ Ðức Lão Tử đã sống hơn 800 năm cho đến khi gặp Ðức Khổng Tử hay sao?

    Ðiều nầy, đối với các nhà Khoa học thực nghiệm thì không bao giờ xảy ra. Nhưng, đứng về mặt tín ngưỡng tôn giáo và Thần Linh Học, Ðức Lão Tử có pháp thuật vô cùng huyền diệu cao siêu, khi thì Ngài trở về cõi Thượng Thiên, khi thì Ngài trở xuống cõi trần, tùy duyên hóa độ, thì việc Ngài thị hiện xuống cõi trần để gặp Ðức Khổng Tử là một trường hợp tùy duyên hóa độ của Ngài mà thôi.

    Câu 10: Nhứt thân ức vạn, diệu huyền thần biến.

    GIẢI NGHĨA

    Nhứt thân: Một cái thân, một người.

    Ức: 100 000.

    Vạn: 10 000.

    Ức vạn là chỉ một số thật lớn.

    Diệu huyền: Huyền là sâu xa kín đáo, diệu là khéo léo. Diệu huyền hay Huyền diệu là sâu xa kín đáo khéo léo đến độ không thể thấy và biết rõ được.

    Thần: Thiêng liêng mầu nhiệm.

    Biến: Thay đổi, biến hóa. Thần biến là biến hóa vô cùng mầu nhiệm.

    Câu 10: Một thân mà có thể biến hóa thành hằng vạn người khác, sự biến hóa vô cùng huyền diệu.

    Ðức Thái Thượng Ðạo Quân có pháp thuật rất cao thâm huyền diệu, một mình Ngài ở một chỗ mà có thể hóa ra thành muôn ức người khác, hiển ứng khắp nơi, động nầy núi nọ rừng kia. Các môn đệ thành tâm cầu khẩn Ngài, thì dù ở xa xôi cách mấy đi nữa, Ngài cũng hiện đến ấn chứng liền.

    Theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh, Ðức Thái Thượng Ðạo Quân hiện xuống cõi trần rất nhiều lần để cứu độ nhơn sanh. (Xem lại Câu 1)

    Nay theo sách "Thực Văn Hiển Thông Khảo", Ông Các Trủy Xương có nói rằng: Ðức Lão Tử không có đời nào là không hiện xuống cõi trần, bằng nhiều hình dáng khác nhau, tên họ khác nhau:

    Ðời vua Huỳnh Ðế, hiệu là Quảng Thành Tử.
    Ðời vua Văn Vương, hiệu rằng Nhiếp Ấp Tử, làm quan Thủ Tân Sử.
    Ðời vua Võ Vương, hiệu là Dục Thành Tử, làm quan Trụ Hạ Sử.
    Ðời vua Khương Vương, hiệu là Quách Thúc Tử.
    Ðầu nhà Hán, hiệu là Huỳnh Thạch Công.
    Ðời vua Hán Vũ Ðế, hiệu rằng Hà Thượng Công.
    Ðời nhà Ðường, Ðức Thái Thượng truyền kinh tại núi Dương Giác. Ðường Cao Tổ họ Lý nhận Ngài là Ông Tổ của dòng họ Lý, nên phong tặng Ngài là Huyền Nguơn Hoàng Ðế.
    Ðời nhà Tống, vua Tống Nhân Tôn tặng hiệu Ngài là: Thái Thượng Lão Quân Hỗn Nguơn Chí Ðức Hoàng Ðế.

    Câu 11: Tử khí đông lai, Quảng truyền Ðạo Ðức.

    GIẢI NGHĨA

    Tử khí: Tử là màu tím, khí là chất khí. Tử khí là là chất khí màu tím, trông như một vừng mây tím hiện ra trên bầu trời.

    Ðông: Hướng Ðông.

    Lai: Ðến, tới.

    Tử khí đông lai: Một đám mây màu tím từ hướng Ðông bay tới.

    Quảng: Rộng lớn.

    Truyền: Trao lại cho người khác.

    Ðạo Ðức: Sách Ðạo Ðức Kinh của Ðức Lão Tử là quyển sách căn bản về giáo lý của Tiên giáo.

    Quảng truyền Ðạo Ðức: Truyền bá rộng rãi sách Ðạo Ðức Kinh.

    Câu 11: Một đám mây màu tím từ hướng Ðông bay tới, Truyền bá rộng rãi sách Ðạo Ðức Kinh.

    Câu 12: Lưu sa tây độ, Pháp hóa tướng tông.

    GIẢI NGHĨA

    Lưu: Chảy, nước chảy.

    Sa: Cát.

    Lưu sa: Dòng cát chảy, chỉ vùng sa mạc ở phía Tây nước Tàu, nơi đó có gió thổi mạnh, cuốn cát bay theo, tạo thành một dòng cát chảy như nước.

    Tây: Hướng Tây.

    Ðộ: Cứu giúp.

    Lưu sa tây độ: Qua vùng sa mạc ở hướng Tây để cứu giúp người đời.

    Pháp: Giáo lý của một tôn giáo.

    Hóa: Biến thành.

    Tướng: Có hình thể.

    Tông: Thường đọc là Tôn, Tôn giáo.

    Pháp hóa tướng tông: Cái giáo lý biến thành hình thể của một nền tôn giáo. Cái giáo lý ấy được trình bày rõ ràng trong sách Ðạo Ðức Kinh của Ðức Lão Tử. Kể từ khi Ðức Lão Tử truyền sách Ðạo Ðức Kinh cho Ông Doãn Hỷ thì Tiên giáo mới bắt đầu có hình tướng, và sau đó nhờ sách ấy, Ðạo Tiên được truyền bá rộng rãi khắp nơi.

    Câu 12: Khi Ðức Lão Tử đi qua vùng sa mạc ở hướng Tây để cứu giúp người đời, Ðức Lão Tử truyền Kinh Ðạo Ðức cho Ông Doãn Hỷ, kể từ đó Tiên giáo mới thành hình tướng.

    Hai câu kinh 11 và 12: Nhắc lại sự tích Ðức Lão Tử đi từ phía Ðông qua phía Tây, đến ải Hàm Cốc, dạy Ðạo cho quan giữ ải Doãn Hỷ, rồi truyền sách Ðạo Ðức Kinh cho Doãn Hỷ tu thành Tiên. Sau đó Ngài đi về hướng Tây, qua vùng sa mạc để tiếp tục cứu độ người đời.

    Vào thời nhà Châu, quan Doãn giữ ải Hàm Cốc, một cửa ải quan trọng ở biên giới phía Tây nước Tàu, có tên là Hỷ, một bữa kia thấy trên Trời có một đám mây màu tím toả hào quang bay đến từ phía Ðông. Ông Doãn Hỷ toán quẻ đoán biết có một vị Thánh nhơn đến và đi qua ải. Ông bèn sai lính quét dọn cửa ải sạch sẽ, trang hoàng nghiêm chỉnh, rồi mặc triều phục chờ đợi. Xảy thấy Ðức Lão Tử ngồi trên xe trắng có trâu xanh kéo đi và Từ Giáp đánh xe, Doãn Hỷ biết đây là Thánh nhơn, liền đi ra nghinh tiếp, gọi Ðức Lão Tử là Thánh nhơn, và thành khẩn rước Ðức Lão Tử vào ải xin học Ðạo. Ðức Lão Tử nhận thấy Doãn Hỷ có lòng thành nên bằng lòng lưu lại ải dạy Doãn Hỷ học Ðạo, xong truyền cho Doãn Hỷ một quyển Kinh báu do Ðức Lão Tử viết ra gọi là Ðạo Ðức Kinh, dạy Doãn Hỷ tiếp tục tu luyện theo đó thì ắt thành Tiên.

    Ông Doãn Hỷ tu luyện theo Ðạo Ðức Kinh được 1000 ngày thì đắc đạo, được Ðức Lão Tử cho phục chức cũ là Nguơn Thỉ Chưởng Giáo, cai trị 8 vạn Thần Tiên nơi cõi thiêng liêng.

    Như vậy, chúng ta thấy rõ rằng, Ðạo Ðức Kinh là quyển sách căn bản của đạo Tiên, và nhờ nó mà đạo Tiên được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.

    Câu 13: Sản Tất Viên, Phương Sóc chi bối.

    GIẢI NGHĨA

    Sản: Sanh ra, sản xuất.

    Chi: Tiếng đệm.

    Bối: Bọn.

    Tất Viên: Tất là cây sơn, nhựa của nó dùng làm sơn mài, Viên là cái vườn. Tất Viên là cái vườn cây sơn. Từ ngữ nầy sau đó biến thành địa danh của vùng đất có Vườn sơn, cũng như ở Châu Thành Thánh Ðịa có địa danh Vườn điều.

    Ông Trang Tử được bổ làm một chức quan nhỏ tại Cổ Thành Tất Viên, thuộc ấp Mông nước Tống; người ta gọi Ông là Tất Viên Lại, vì thế Ông lấy chữ Tất Viên làm hiệu.

    Vậy, Tất Viên là tên hiệu của Ông Trang Tử.

    Phương Sóc: Ông Ðông Phương Sóc, một vị Tiên thời vua Hán Võ Ðế bên Tàu.

    Câu 13: Sản xuất ra các Ông Trang Tử và Ðông Phương Sóc.

  • Kinh Cúng Tứ Thời: Kinh Nho giáo

    1. Kinh Nho giáo.

    Kinh Nho giáo
    Khổng Thánh Chí Tâm qui mạng lễ

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Quế Hương nội điện, Văn Thỉ thượng cung. Ở trong Ðiện Quế Hương, Phía trên hết là Cung Văn Thỉ, nơi thường ngự của Ðức Khổng Tử.
    2. Cửu thập ngũ hồi, Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố. 95 lần giáng sanh xuống cõi trần rồi trở về, Gieo trái lành nơi vườn thơ văn kinh sách.
    3. Bá thiên vạn hóa, Bồi quế thọ ư Âm chất chi điền. Trăm ngàn muôn lần biến hóa, Vun bồi cây quế nơi ruộng phước đức.
    4. Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh. Văn tự chế thành thì có sấm nổ, văn tự như có chứa ngọn lửa để soi sáng và ghi chép kiến thức, kinh nghiệm của người xưa, nên linh như chim phụng trên núi.
    5. Chí như ý từ, tường ư ngao trụ. Ðến như cái ý tưởng thương yêu chúng sanh, tốt lành như ở núi Ngao trụ.
    6. Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu. Sự khai mở cái Tâm của con người ắt hẳn gốc ở tại sự hết lòng hiếu thảo với cha mẹ.
    7. Thọ quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung. Sự vững bền của quốc gia ắt hẳn trước tiên ở tại sự hết lòng trung thành với nước.
    8. Ứng mộng bảo sanh, thùy từ mẫn khổ. Ðức Khổng Tử có lòng nhơn từ thương người khổ nạn nên thường chiêm bao thấy Ông Châu Công Ðán dạy nhiều điều bảo tồn sự sống cho nhơn sanh.
    9. Ðại nhơn, Ðại hiếu, Ðại Thánh, Ðại từ. Lòng nhơn lớn, lòng hiếu lớn, Bực Thánh lớn, đức từ bi lớn.
    10. Thần văn, Thánh võ, Hiếu Ðức Trung Nhơn. Văn võ song toàn tài giỏi tột bực, Có đủ 4 đức: Hiếu, Ðức, Trung, Nhơn.
    11. Vương tân sách phụ. Thượng khách của vua, thường bày kế hoạch giúp vua.
    12. Nho tông khai hóa. Ðạo Nho mở ra giáo hóa nhơn sanh.
    13. Văn Tuyên tư lộc, Hoằng nhơn Ðế Quân. Ðức Khổng Tử lo việc ban phước lộc cho thế gian, là vị Ðế Quân nhơn đức rộng lớn.
    14. Trừng chơn chánh quang , Bửu quang từ tế. Thiên Tôn. Trong sạch, ngay thật,sáng tỏ, báu sáng, nhơn từ, cứu giúp. Là một Ðấng Thiên Tôn.

    (Lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm: Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn)

    Chí tâm qui mạng lễ nghĩa là cúng lạy với tất cả ý chí và tâm hồn, đem mình về vâng chịu nghe theo.

    Câu 1: Quế Hương nội điện, Văn Thỉ thượng cung.

    GIẢI NGHĨA

    Quế Hương: Mùi thơm của cây quế. Quế là một loại cây quí, vỏ cây có mùi rất thơm, vị ngọt và cay nồng, tính ấm, dùng làm thuốc trị bịnh. Ở đây, Quế Hương là tên riêng của một Ðiện nơi cõi thiêng liêng.

    Nội: Ở trong.

    Ðiện: Toà nhà lớn.

    Quế Hương nội điện: Trong điện Quế Hương nơi cõi thiêng liêng.

    Văn Thỉ: Văn là văn chương, Thỉ còn viết là Thủy, là bắt đầu, nguồn gốc. Văn Thỉ là khởi đầu về văn chương. Ở đây, Văn Thỉ là tên riêng của một Cung nơi cõi thiêng liêng.

    Thượng: Trên, ở trên.

    Cung: Tòa nhà. Cung nhỏ hơn Ðiện. Trong một Ðiện có nhiều Cung.

    Văn Thỉ thượng cung: Cung Văn Thỉ ở phía bên trên.

    Câu 1: Ở cõi thiêng liêng có một tòa nhà lớn gọi là Ðiện Quế Hương, trong đó một Cung ở trên hết gọi là Cung Văn Thỉ. Ðó là nơi thường ngự của Ðức Khổng Tử, Giáo chủ Nho giáo.

    Câu 2: Cửu thập ngũ hồi, Chưởng thiện quả ư thi thơ chi phố.

    GIẢI NGHĨA

    Cửu thập ngũ: Chín mươi lăm (95).

    Hồi: Trở về, ý nói giáng sanh xuống trần rồi trở về cõi thiêng liêng, tức là Luân hồi.

    Cửu thập ngũ hồi: 95 lần luân hồi.

    Chưởng: còn đọc là Chủng, nghĩa là gieo, thí dụ như gieo lúa hay gieo đậu.

    Thiện: Lành, tốt.

    Quả: Cái trái.

    Thiện quả: Trái lành.

    Chưởng thiện quả: Gieo trái lành thì sẽ mọc lên cây lành.

    Ư: Nơi, ở tại.

    Thi: Thơ văn, bài văn có vần điệu.

    Thơ: tức là Thư, nghĩa là kinh sách.

    Chi: Tiếng đệm.

    Phố: Vườn trồng cây và hoa kiểng.

    Thi thơ chi phố: Vườn thơ văn kinh sách.

    Câu 2: Ðức Khổng Tử luân hồi 95 lần để gieo trái lành nơi vườn thơ văn kinh sách.

    Ðức Khổng Tử dùng văn chương thi phú, viết thành kinh sách để dạy dỗ nhơn sanh điều lành, điều đạo đức nhơn nghĩa, hiếu để trung tín, mà ăn ở cho phải đạo, hầu tạo ra một nhân lành thì sẽ hưởng được quả lành.

    Ðó là Luật Nhân Quả: Chưởng qua đắc qua, chưởng đậu đắc đậu. Nghĩa là: Gieo dưa thì được dưa, gieo đậu thì hái được đậu.

    Lấy kinh sách làm vườn, lấy điều lành làm giống, vun phân tưới nước thì sẽ mọc lên cây lành và sẽ sanh trái lành.

    Câu 3: Bá thiên vạn hóa, Bồi quế thọ ư Âm chất chi điền.

    GIẢI NGHĨA

    Bá: Trăm (100).

    Thiên: Ngàn (1000).

    Vạn: Muôn, mười ngàn (10 000).

    Hóa: Biến đổi.

    Bá thiên vạn hóa: Trăm ngàn muôn lần biến hóa. Ý nói: Biến hóa rất nhiều lần, không kể hết được.

    Bồi: Vun đất vào gốc cây để nuôi cây tươi tốt.

    Quế: Cây quế.

    Thọ: còn đọc là Thụ, nghĩa là cây cối, thí dụ như: Cổ thụ: Cây lớn và già, sống lâu.

    Quế thụ: Cây quế.

    Bồi quế thụ: Vun bồi cây quế.

    Ư: Nơi, ở tại.

    Âm chất: Việc làm lành cốt yếu tạo phước đức nơi cõi thiêng liêng, có Thần, Thánh chứng biết, không phô trương ra cho người đời biết.

    Chi: Tiếng đệm.

    Ðiền: Ruộng.

    Âm chất chi điền: Ruộng phước đức.

    Câu 3: Trăm ngàn muôn lần biến hóa, vun bồi cây quế nơi ruộng phước đức.

    "Ruộng đây là tỷ với Tâm. Tâm không ai giồi trau. Ðạo nơi Tâm, thì Tâm ví như Ðiền, có Ðiền mà chẳng có cày bừa đặng đem hột lúa gieo vào cho đặng trổ bông đơm hột, thì ruộng tất bỏ hoang, bỏ hoang thì sâu bọ rắn rít vào ẩn trú. Người mà có Tâm như vậy, ra thế nào?

    Ruộng sẵn, giống sẵn, cày bừa sẵn, duy có công làm cho đất phì nhiêu đặng cho buổi gặt hưởng nhờ, mà không chịu làm, thế thì phải bị diệt tận chơn linh." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 53)

    Cây quế, trong văn chương, được dùng để chỉ người có học thức tài giỏi đỗ đạt, có đức hạnh, có địa vị cao và tiếng tăm lớn.

    Ðiển tích: Ông Ðậu Võ đời nhà Tống, người đất Yên Sơn, tánh tình ngay thẳng, lại ham làm phước, đến 30 tuổi mà vợ chưa sanh được con. Vợ chồng đi lễ chùa Diên Thọ để cầu tự, giữa đường gặp vàng bỏ rơi, ông liền giữ lấy rồi tìm người mất vàng trả lại, lòng ngay chánh cảm lòng Trời, nên Trời cho sống thêm 2 kỷ nữa và cho sanh 5 người con trai, lớn lên đều học giỏi và thi đậu Tiến Sĩ, làm quan hiển đạt, nổi danh là "Yên Sơn Ngũ Quế " (5 cây quế ở đất Yên Sơn).

    Trung Quốc Sử có chép rằng: "Tống Ðậu quân, hữu tế nhơn âm công, sanh ngũ tử câu chiết quế." Nghĩa là: Ðời Tống, Ông họ Ðậu, có lòng cứu giúp người, tạo được âm chất công đức, nên sanh được 5 người con trai đều bẻ cành quế.

    Câu Kinh: Bồi quế thọ ư âm chất chi điền, có ý nói: Ðức Khổng Tử khuyên người đời ráng làm việc phước thiện đặng lập âm chất cho con cháu hưởng lâu dài về sau. Cái âm chất ấy ví như miếng ruộng tốt, còn con cháu ví như cây quế cây hòe, hễ trồng lên miếng ruộng âm chất đó thì chắc chắn sẽ lớn lên tươi tốt sum suê, sanh trái lành quả ngọt, hưởng được lâu dài.

    Còn thoảng như không lo làm âm chất, mà lo chạy theo bạc tiền danh vọng, dù sắm được bao nhiêu ruộng vườn nhà cửa đi nữa, thì khi chết cũng không mang theo được, để lại cho con cháu, chúng sẽ ỷ lại, tiêu xài phung phí, ăn không ngồi rồi, chẳng bao lâu cũng bán sạch, sự nghiệp tiêu tan.

    Câu 4: Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh.

    GIẢI NGHĨA

    Tự: Từ lúc.

    Lôi: Sấm, tiếng sấm.

    Trữ: Cất chứa.

    Bính: Ngọn lửa cháy sáng. (Còn một âm nữa là Bỉnh).

    Linh: Thiêng liêng, thường nói là Linh thiêng.

    Ư: Ở tại.

    Phụng: Con chim phụng, hay chim phượng, một con vật linh trong hàng Tứ Linh: Long, Lân, Qui, Phụng.

    Lãnh: Núi.

    Tự lôi trữ bính: Từ lúc tiếng sấm nổ vang nháng sáng.

    Câu nầy ý nói lúc chế thành chữ viết bên Tàu. Sử Ký chép rằng: Ông Thương Hiệt, đời vua Huỳnh Ðế, trên xem hình sao, dưới dựa theo hình sự vật mà chế ra chữ viết (chữ Nho), nên gọi là văn tự tượng hình.

    Thí dụ như chữ Khẩu [口] là miệng, phải để trống ở giữa; chữ Mã [馬] là ngựa, thì phải có 4 cái chấm bên dưới để tượng hình 4 cái chưn; chữ Môn [門] là cửa, phải có hình 2 cánh cửa ghép lại.

    Khi văn tự được chế thành thì Trời sanh mưa, sấm chớp nổ vang, người người kinh sợ.

    Linh ư phụng lãnh: Linh thiêng như con chim phụng trên núi.

    Chim phụng có tánh linh, khi thời loạn lạc thì ẩn mình trong hang núi, khi sắp thái bình thì bay ra cất tiếng gáy báo hiệu có vua Thánh ra đời.

    - Lúc vua Nghiêu xuất thế, có chim phụng hoàng bay đến đậu nơi sân.

    - Ðời vua Trụ nhà Thương, có chim phụng gáy tại núi Kỳ Sơn ở xứ Tây Kỳ, ứng điềm Thánh Chúa Văn Vương, Võ Vương thống nhứt nước Tàu, mở ra nhà Châu, đem lại thái bình an lạc.

    Câu 4: Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh:

    Nghĩa là: Từ lúc văn tự được chế thành thì Trời sanh sấm nổ nháng sáng, nhờ có văn tự mới ghi chép những lời giáo huấn của Thánh Hiền; nhờ đó, con người học hỏi, mở sáng trí khôn ngoan. Như vậy, văn tự linh thiêng như chim phụng trên núi, vì nhờ văn tự mà con người có thể học hỏi và tiến hóa để trở thành Thánh nhân.

    Nhờ các bậc Thánh Hiền của Ðạo Nho mà người Trung Hoa có được một thứ chữ viết tượng hình có ý nghĩa rất cao siêu. Khi cắt nghĩa bằng cách chiết tự thì mới thấy rõ ý nghĩa sâu xa của Thánh Hiền dụng tâm đặt vào trong chữ viết đó.

    Do đó người xưa rất coi trọng chữ viết, vì cho đó là chữ của Thánh Hiền, nên khuyên người đời khi thấy giấy có viết chữ Nho rớt rơi, không nên chà đạp mà nên lượm lấy rồi đem đốt đi.

    Kinh Sám Hối có câu:

    Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,
    Ðốt ra tro bỏ chảy dòng sông.
    Thủy triều vận tải biển đông,
    Lòng hằng dường ấy, phước đồng ăn chay.

    Câu 5: Chí như ý từ, tường ư ngao trụ.

    GIẢI NGHĨA

    Chí: Ðến, tới.

    Như: Giống như.

    Ý: Ý nghĩ, tư tưởng, ý tưởng.

    Từ: Lòng thương yêu chúng sanh.

    Tường: Tốt đẹp, may mắn.

    Ư: Ở tại.

    Ngao: là con Cự Ngao.

    Trụ: là hòn núi. Ðây là từ ngữ mà khi xưa đọc là Trụ, nhưng ngày nay đọc là Tụ. Ngao trụ là hòn núi dùng làm chỗ ở cho các vị Tiên có những con Cự Ngao đỡ vững, theo điển tích sau đây:

    Trong sách Thần Dị Kinh của Ông Ðông Phương Sóc, Tổ Sư Tán Tiên, Ông có chép như sau: Tại Bắc Câu Lư Châu có một ngọn núi cao, chư Tiên thường đến đó ở. Núi có từ thời tạo thế, song cái đặc biệt là núi ấy không chưn, trôi nổi trên mặt biển, nhô lên hay thụp xuống tùy theo thủy triều. Chư Tiên lo sợ để lâu núi ấy sẽ trôi qua chỗ khác nên tâu với Thượng Ðế xin giữ núi ấy cho chắc. Ðức Thượng Ðế sai 15 con Cự Ngao, to lớn hơn sấu voi thập bội, đến đỡ núi ấy cho vững, không cho trôi đi nữa. Số 15 con Cự Ngao được chia làm 2 phiên, mỗi phiên là 6 muôn năm, cứ luân phiên nhau mà giữ núi ấy.

    Vậy Ngao trụ là ngọn núi Tiên nổi trên mặt biển có các con Cự Ngao đỡ vững.

    Câu 5: Ðến như cái ý tưởng thương yêu chúng sanh, tốt lành như ở núi Ngao Trụ.

    Câu 6: Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu.

    GIẢI NGHĨA

    Khai: Mở ra.

    Nhơn tâm: Cái Tâm của con người. Bản chất của Tâm vốn lành, nên gọi là Lương Tâm. Người làm ác là vì cái Tâm bị vật dục che phủ nên không còn điều khiển được hành động của mình. Tất: Ắt hẳn.

    Bổn: Cái gốc.

    Ư: Ở tại.

    Ðốc: Rất, lắm.

    Thân: Gần gũi thương yêu, chỉ cha mẹ.

    Chi: Tiếng đệm.

    Hiếu: Hết lòng phụng dưỡng cha mẹ.

    Câu 6: Dịch nghĩa câu Kinh từng chữ: Sự khai mở cái Tâm của con người, ắt hẳn, gốc ở tại, rất, hiếu thảo với cha mẹ.

    Ý nói: Ðạo của Ðức Khổng Tử chủ trương lấy việc khai mở cái Tâm của con người làm gốc, bởi vì cái Tâm do Trời ban cho vốn lành và sáng suốt, thường khiến con người làm điều hay sự phải, giục con người mến đạo đức, chuộng tinh thần, biết thuận tùng Thiên lý.

    Muốn khai mở cái Tâm, Ðức Khổng Tử lấy sự Hiếu thảo với cha mẹ làm căn bản, bởi vì trong trăm hạnh thì hiếu đứng đầu. Người bất hiếu là vì để cái Tâm bị Lục dục Thất tình che lấp trở nên mờ ám.

    Ðây là điểm đồng nhứt và cũng là căn bản của Tam giáo: Nho, Lão, Thích. Tam giáo đều dạy lấy Tâm làm gốc:

    Nho giáo dạy: Tồn Tâm dưỡng Tánh,
    Lão giáo dạy: Tu Tâm luyện Tánh,
    Thích giáo dạy: Minh Tâm kiến Tánh.

    Trong Ðạo Cao Ðài, Ðức Phật Mẫu giáng cơ dạy về chữ TÂM như sau:

    Gắng sức trau giồi một chữ Tâm,
    Ðạo đời muôn việc khỏi sai lầm.
    Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
    Tâm chánh mới mong mối Ðạo cầm.
    Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,
    Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
    Ðường Tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,
    Có buổi hoài công bước Ðạo tầm.

    Câu 7: Thọ quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung.

    GIẢI NGHĨA

    Thọ: Sống lâu, lâu dài.

    Quốc: Nước, quốc gia.

    Mạch: Cái ống dẫn máu để cho máu lưu thông đem dưỡng khí và chất bổ đến nuôi sống các tế bào trong cơ thể.

    Quốc mạch: Chỉ chung tất cả sinh hoạt của dân chúng trong một quốc gia. Mỗi người dân trong nước ví như một tế bào trong cơ thể. Tế bào nhờ mạch máu nuôi dưỡng mới hoạt động được, thì người dân cũng nhờ các hoạt động của các cơ quan, các ngành nghề trong nước mà có đời sống an ninh và đầy đủ.

    Thọ quốc mạch: là lâu dài các sinh hoạt của dân chúng trong nước: Ý nói sự trường tồn của quốc gia.

    Tất: Ắt hẳn.

    Tiên: Trước.

    Ư: Ở tại.

    Trí: Rất, hết lòng.

    Chúa: cũng đọc là Chủ, người làm Chúa, làm vua một nước.

    Chi: Tiếng đệm.

    Trung: Lòng trung thành.

    Vua là người đứng đầu một nước, nên vua tượng trưng cho nước. Quan niệm trung với vua là trung với nước, chớ không phải trung thành với một cá nhân ông vua hay với dòng họ của ông vua.

    Câu 7: Dịch nghĩa câu kinh từng chữ: Sự lâu dài của quốc gia, ắt hẳn, trước tiên, ở tại, hết lòng trung thành với nước.

    Ý nói: Muốn cho quốc gia được vững bền thì trước tiên, người dân phải hết lòng trung thành với nước.

    Hai câu Kinh 6 & 7 nói lên tôn chỉ của Ðạo Nho là khai mở cái Tâm của con người cho được sáng tỏ, bằng cách dạy con người 2 điều căn bản là: Hiếu và Trung.

    Trời ban cho con người một cái Tâm thiện lương chơn chánh để điều khiển xác thân đi theo đường đạo đức, nhưng vì lục dục thất tình che lấp cái Tâm, làm cho con người trở nên u mê tăm tối, đi vào nẻo vạy tà. Nay cần phải vẹt ra để cho cái Tâm được sáng tỏ.

    Trong mục đích đó, Nho giáo chủ trương:

    Trong gia đình thì phải hết lòng Hiếu với cha mẹ.
    Ðối với quốc gia dân tộc thì phải hết lòng Trung.

    Ðây là một chủ trương rất tích cực và thực tế, để khai mở Tâm Tánh con người cho được sáng tỏ tốt đẹp. Hiếu và Trung là 2 đức tánh căn bản của con người, vì các đức tánh khác đều bắt nguồn từ Trung và Hiếu cả.

    Câu 8: Ứng mộng bảo sanh, thùy từ mẫn khổ.

    GIẢI NGHĨA

    Ứng: Ðáp lại.

    Mộng: Chiêm bao.

    Ứng mộng: Hiện ra một điềm chiêm bao để đáp lại sự cầu nguyện.

    Bảo: Gìn giữ, bảo vệ.

    Sanh: Sự sống.

    Bảo sanh: Bảo vệ sự sống.

    Ứng mộng bảo sanh: Ứng cho một điềm chiêm bao do lòng đạo đức mong muốn, để chỉ vẽ cách thức bảo vệ sự sống cho nhơn sanh.

    Ðối với những vị mà nguyên căn là những Chơn linh cao trọng lãnh lịnh giáng trần giáo hoá và làm lợi ích cho nhơn sanh, các Ðấng Thiêng liêng thường đến trong giấc chiêm bao để mách bảo những điều sắp xảy ra và những phương cách giải quyết để bảo tồn sự sống cho nhơn sanh. Những sự mách bảo nầy thường dưới dạng ngụ ý, tượng trưng, cần phải suy nghĩ kỹ mới thấu rõ được.

    Chúng ta đọc tiểu sử của Ðức Phạm Hộ Pháp, chúng ta thấy lúc Ngài còn trẻ tuổi, Ngài bị mê đi nhiều lần, và lần đáng nhớ nhất là năm 17 tuổi. Ngài chiêm bao thấy Ngài về Bạch Ngọc Kinh gặp Ðức Chí Tôn, được Ðức Chí Tôn cho ăn bánh và uống nước, trong đó Ðức Chí Tôn ngụ ý cho biết về những việc sau nầy của Ngài.

    Ðức Khổng Tử lãnh lịnh Ðức Chí Tôn giáng sanh xuống trần để phục hưng Nho giáo, nên Ngài thường được các Ðấng Thiêng liêng đến trong giấc chiêm bao mách bảo nhiều việc quan trọng. Tương truyền, Ðức Khổng Tử thường nằm chiêm bao thấy Ông Châu Công Ðán dạy cho nhiều điều để làm lợi ích cho nhơn sanh.

    Thùy: Rủ xuống, rủ lòng nghĩ tới.

    Từ: Lòng thương yêu chúng sanh.

    Mẫn: Lo lắng xót thương.

    Thùy từ mẫn khổ: Rủ lòng nhơn từ thương người khổ nạn.

    Biết bao cảnh khổ não của nhơn sanh nơi cõi trần, mỗi người gặp khổ não một cách. Nói như vậy không phải là cõi trần không có cái vui, cái hạnh phúc, nhưng cái vui và cái hạnh phúc ấy chỉ xảy ra rất ít và cũng không tồn tại lâu dài, còn cái buồn và cái khổ thì kéo đến liên tiếp. Làm một cuộc tổng kết thì cái vui sướng chỉ có một mà cái buồn khổ nhiều gấp 10 lần hay hơn nữa.

    Ðức Khổng Tử đứng hàng Phật vị, có cái Tâm từ bi của Phật, thấy các cảnh khổ não của chúng sanh thì đem lòng thuơng xót, nhứt là trong thời đại của Ngài là thời Xuân Thu Chiến Quốc, loạn lạc khắp nơi, đâu đâu cũng đầy dẫy cảnh khói lửa chết chóc, giết hại lẫn nhau, mạnh được yếu thua, khôn còn dạy mất, đạo đức suy đồi. Ngài muốn cứu vớt nhơn sanh bằng cách đem học thuyết của Ngài dạy cho các từng lớp dân chúng và các hàng vua quan phải biết tôn trọng sự công bằng và mạng sống của con người, mỗi người phải làm đúng theo chức năng của mình, để cùng nhau tạo lập một cuộc sống thanh bình, an lạc, ấm no như thời của 2 vua Nghiêu Thuấn.

    Câu 8: Ðức Khổng Tử có lòng nhơn từ thương người khổ nạn, nên Ngài thường nằm chiêm bao thấy Ông Châu Công Ðán dạy cho nhiều điều để bảo tồn sự sống của nhơn sanh.

    Câu 9: Ðại nhơn, Ðại hiếu, Ðại Thánh, Ðại từ.

    GIẢI NGHĨA

    Ðại: Lớn.

    Nhơn: Lòng thương người mến vật, thương khắp chúng sanh.

    Hiếu: Hết lòng phụng dưỡng cha mẹ.

    Thánh: Bực Thánh.

    Từ: Lòng thương yêu chúng sanh.

    Câu 9: Lòng nhân lớn, lòng hiếu thảo lớn, bực Thánh lớn, đức từ bi lớn.

    Câu 10: Thần văn, Thánh võ, Hiếu Ðức Trung Nhơn.

    GIẢI NGHĨA

    Thần: Tài giỏi như Thần.

    Văn: Việc văn chương, nghĩa tổng quát là chỉ những việc thuộc về văn hóa, chánh trị, giáo dục.

    Võ: Việc võ bị quân sự, giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ tổ quốc.

    Thánh: Tài giỏi như Thánh.

    Ðức: Những việc làm hợp lòng người, thuận lẽ Trời, tạo được phước đức.

    Trung: Lòng trung thành.

    Câu 10: Văn võ song toàn, tài giỏi tột bực như Thần như Thánh, gồm đủ 4 đức tốt: Hiếu, Ðức, Trung, Nhơn.

    Câu 11: Vương tân sách phụ.

    GIẢI NGHĨA

    Câu 11: Vương tân sách phụ:

    Vương: Vua.

    Tân: Khách.

    Sách: Kế hoạch, kế sách, sách lược.

    Phụ: Giúp đỡ.

    Vương tân: Khách của vua. Khi đi chu du qua các nước chư Hầu, Ðức Khổng Tử được các vua chư Hầu đối đãi vào bực thượng khách, kính trọng là bực tôn sư để nghe Ngài giảng giải về phép trị nước an dân, làm cho dân giàu nước mạnh.

    Sách phụ: Giúp cho kế hoạch trị nước an dân.

    Hễ vua chư Hầu nào có lòng yêu mến dân chúng, biết tôn trọng đạo đức thì Ðức Khổng Tử ở lại đó giúp vua kế hoạch cải cách việc chánh trị, văn hóa và kinh tế; còn vị vua nào vô đạo, ham mê tửu sắc thì Ngài bỏ đi qua nước khác. Sự đi hay ở của Ngài tùy thuộc vào cái Ðạo của Ngài có được thực hiện hay không mà thôi.

    Câu 11: Ðức Khổng Tử là bực thượng khách của các vị vua chư Hầu, thường giúp bày kế hoạch trị nước an dân.

    Câu 12: Nho tông khai hóa.

    GIẢI NGHĨA

    Câu 12: Nho tông khai hóa.

    Nho: Ðạo Nho.

    Tông: Cũng đọc là Tôn, nghĩa là tôn giáo. Nho tông là Nho giáo.

    Khai: Mở ra.

    Hóa: Thay đổi, dạy cho người ta thay đổi từ xấu ra tốt, từ dở thành hay.

    Câu 12: Ðạo Nho mở ra để giáo hóa nhơn sanh.

    Câu 13: Văn Tuyên tư lộc, Hoằng nhơn Ðế Quân.

    GIẢI NGHĨA

    Văn Tuyên: Tên thụy của Ðức Khổng Tử do các vua đời sau truy tặng cho Ngài, với tấm lòng ngưỡng mộ, kể ra:

    Khi Hớn Lưu Bang dẹp xong Hạng Võ, vua đi ngang nước Lỗ, đến làng Khuyết Lý, nơi sanh ra Ðức Khổng Tử, vào miếu bái lễ Ngài và truy phong là: Khổng Thánh Tiên Sư.

    Vua Ðường Huyền Tông truy tặng:Văn Tuyên Vương.

    Vua Tống Chơn Tông truy phong là: Chí Thánh Văn Tuyên Vương.

    Vua Thái Tổ nhà Nguyên truy phong Ngài là: Ðại Thánh Chí Thánh Văn Tuyên Vương.

    Vua Gia Tịnh nhà Minh tặng là: Chí Thánh Tiên Sư.

    Vua Thạnh Trị nhà Thanh truy tặng là: Chí Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Vương Khổng Tử.

    Nếu gom tất cả các danh hiệu mà các vị vua đã truy tặng Ðức Khổng Tử, ta được danh hiệu:

    "Ðại Thánh Chí Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Vương Khổng Tử".

    Ngày nay thời TKPÐ, Ðức Khổng Tử có tước hiệu là: Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

    Tư lộc: Tư là lo việc, quản lý; lộc là phước lộc. Tư lộc là lo việc ban phước lộc cho thế gian về thi cử văn chương và ban cho phẩm tước nơi chốn quan trường.

    Văn Tuyên tư lộc: Ðức Khổng Tử có nhiệm vụ coi việc ban phước lộc cho thế gian về văn chương thi cử và phẩm tước nơi quan trường.

    Hoằng: Rộng lớn.

    Nhơn: Lòng thương người mến vật, thương khắp chúng sanh.

    Ðế Quân: Phẩm tước rất cao trọng nơi cõi thiêng liêng do Ðức Chí Tôn phong thưởng.

    Hoằng nhơn Ðế Quân: Ðức Khổng Tử là một vị Ðế Quân nhơn đức rộng lớn.

    Câu 13: Ðức Khổng Tử coi về việc ban phước lộc cho thế gian, Ngài là vị Ðế Quân nhơn đức rộng lớn.

    Câu 14: Trừng chơn chánh quang , Bửu quang từ tế. Thiên Tôn.

    GIẢI NGHĨA

    Trừng: Trong sạch.

    Chơn: Thật, chơn thật.

    Chánh: Ngay thẳng, không tà vạy.

    Quang: Sáng.

    Bửu: Quí báu.

    Từ: Lòng thương yêu chúng sanh.

    Tế: Cứu giúp.

    Thiên Tôn: Phẩm tước nơi cõi thiêng liêng do Ðức Chí Tôn phong thưởng.

    Câu 14: Ðức Khổng Tử có những đức tánh: Trong sạch, chơn thật, ngay thẳng, sáng tỏ, báu sáng, từ bi hay cứu giúp, là một Ðấng Thiên Tôn.

    Câu niệm: Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

    Khổng Thánh: Ðức Thánh họ Khổng, tức là Ðức Thánh Khổng Tử.

    Tiên Sư: Danh từ để học trò gọi Thầy dạy học khi Thầy đã chết. Các nhà Nho thường gọi Ðức Khổng Tử là Khổng Thánh Tiên Sư.

    Hưng Nho: Phục hưng Ðạo Nho, làm cho Ðạo Nho hưng thịnh.

    Thạnh Thế: Ðời thịnh vượng.

    Nhờ Ðức Khổng Tử phục hưng Ðạo Nho, làm cho học thuyết Nho giáo có hệ thống, đưa lên ngang hàng với Tiên giáo và Phật giáo. Nước Tàu nhờ Nho giáo mà được thịnh vượng và hùng cường trong một thời gian dài.

  • Kinh Cúng Tứ Thời: Dâng Tam Bửu

    1. Tam Bửu là 3 món quí báu.

    Tam Bửu của con người là: Tinh, Khí, Thần, tức là Thể xác, Chơn thần và Linh hồn.

    ■ TINH là Thể xác, tức là hình hài xác thịt của con người, được tượng trưng bằng Hoa (Bông), vì Ðức Chí Tôn muốn cho hình thể con cái của Ngài tốt đẹp như cái hoa.

    ■ KHÍ là Chơn thần, tức là xác thân thiêng liêng, được tượng trưng bằng Rượu vì Ðức Chí Tôn muốn cho Chơn thần các con cái của Ngài cường liệt như rượu mạnh vậy.

    ■ THẦN là Chơn linh hay Linh hồn, là điểm Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người, được tượng trưng bằng Trà, vì Ðức Chí Tôn muốn cho Chơn linh con cái của Ngài điều hòa thơm tho như hương vị của Trà vậy.

    Mỗi khi cúng Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và các Ðấng Thiêng liêng, chúng ta phải dâng Tam Bửu lên Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu, dâng Bửu nào thì thài bài Kinh của Bửu ấy theo giọng Ðảo Ngũ Cung và cầu nguyện cũng theo Bửu đó.

    * Ðầu tiên, dâng Hoa thì thài bài Dâng Hoa, rồi cầu nguyện dâng Thể xác.

    * Kế đó, dâng Rượu thì thài bài Dâng Rượu, rồi cầu nguyện dâng Chơn thần.

    * Sau cùng là dâng Trà thì thài bài Dâng Trà, rồi cầu nguyện dâng Linh hồn.

    2. Nguồn gốc 3 bài Dâng Tam Bửu.

    Ðầu năm Bính Dần (1926), Ðức Chí Tôn dạy 3 vị: Lê văn Trung, Phạm công Tắc và Cao quỳnh Cư đến nhà của Quan Phủ Ngô văn Chiêu ở gần chợ Sài gòn để Quan Phủ chỉ cho vẽ Thiên Nhãn thờ Ðức Chí Tôn và cách thờ phượng. (Quan Phủ Ngô văn Chiêu là môn đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn, thấy hình Thiên Nhãn 3 lần do Ðức Chí Tôn dùng huyền diệu cho hiện ra ở tại đảo Phú Quốc, để Quan Phủ vẽ Thiên Nhãn theo hình đã thấy mà thờ Ðức Chí Tôn).

    Quan Phủ chỉ cho 3 vị thấy cách thờ Thiên Nhãn, rồi trao cho 3 vị 3 bài Kinh: Dâng Hoa, Dâng Rượu, Dâng Trà, để cúng Ðức Chí Tôn, và bài Kinh Cầu Cơ "Trời còn".

    Ba bài Kinh Dâng Tam Bửu nầy có in trong quyển "Tứ Thời Nhựt Tụng Kinh" xuất bản năm 1928 của nhị vị Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, trang 38, 39, 40, xin chép ra sau đây:

    * BÀI DÂNG TIÊN HOA:
    Hoa tươi năm sắc thiên nhiên,
    Ðầu cúi xin dâng lễ kỉnh thiềng.
    Cảm đức Cao Ðài lòng đoái tưởng,
    Từ bi cứu thế giáng đàn tiền.

    * BÀI DÂNG TIÊN TỬU:
    Tửu vị hương hề tửu vị hương,
    Khấu đầu cung hiến chước hồ tương.
    Cao Ðài hứng cảnh nhàn hoan nhã,
    Ðệ tử cung trần mỹ vị hương.

    * BÀI DÂNG TIÊN TRÀ:
    Ðông độ thanh trà mỹ vị hương,
    Khấu đầu cung hiến chước hồ trường.
    Cao Ðài hứng cảnh nhàn hoan nhã,
    Ðệ tử cung trần mỹ vị hương.

    Sau đó được vài tháng, đến ngày 14-3-Bính Dần (dl 24-4-1926), Quan Phủ Ngô văn Chiêu tách riêng ra để tu đơn, không cộng tác với nhóm của Ngài Lê văn Trung nữa, nhưng 3 bài Dâng Tam Bửu của Quan Phủ đưa qua vẫn được dùng để dâng cúng Ðức Chí Tôn.

    Ðến đầu năm Kỷ Tỵ (1929), Ðức Phạm Hộ Pháp có xin với Bát Nương ban cho 3 bài Kinh Dâng Tam Bửu mới để thế cho 3 bài cũ của Ngài Ngô văn Chiêu, nhưng Ðức Phạm Hộ Pháp được trả lời là nên để cho Hội Thánh đặt ra để Dâng Tam Bửu lên Ðức Chí Tôn thì mới hợp lẽ.

    Do dó, Ðức Phạm Hộ Pháp chỉ định Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu (tức Cao Mỹ Ngọc) đặt ra 3 bài nầy, rồi cầu Bát Nương chỉnh văn lại, xong dâng lên Ðức Chí Tôn duyệt, rồi chuyển qua cho Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung bên Cửu Trùng Ðài ban hành ra cho toàn đạo.

    Ngày 17-6-Canh Ngọ (dl 12-7-1930), Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung (lúc đó còn là Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt) ban hành quyển "NGHI TIẾT ÐẠI ÐÀN TIỂU ÐÀN TẠI TOÀ THÁNH VÀ THÁNH THẤT CÁC NƠI", trong đó có ban hành 3 bài Dâng Tam Bửu mới mà chúng ta đang sử dụng.

    4. Cách cầu nguyện khi Dâng Tam Bửu.

    Về cách thức và lời cầu nguyện khi Dâng Tam Bửu, Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo dạy như sau:

    - Hễ đưa Bông lên là dâng cái Hình thể của chúng ta đó, ta cúi đầu cầu nguyện Chí Tôn:

    "Con xin dâng mảnh hình hài của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng."

    - Khi dâng Rượu thì cầu nguyện:

    "Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng."

    (Trí thức Tinh thần của con người là thuộc về Chơn thần).

    - Khi dâng Trà cầu nguyện:

    "Con xin dâng cả Linh hồn của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng."

    + Câu chót, chúng ta nên nguyện gồm chung lại như vầy:

    "Cả Linh hồn, cả Trí não, cả Hình hài con, Thầy đào tạo, đó là của Thầy thì do nơi quyền hành độc đoán của Thầy định."

    Khi dâng Tam Bửu lên Ðức Chí Tôn, hễ dâng Bửu nào thì cầu nguyện theo Bửu nấy, dâng xong một Bửu thì lạy 1 lạy 4 gật, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy: Nam mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát.

    Dâng Tam Bửu cúng Ðức Phật Mẫu thì cầu nguyện với Ðức Phật Mẫu, dâng Bửu nào thì cầu nguyện theo Bửu nấy, lời cầu nguyện thì giống y như lời cầu nguyện đối với Ðức Chí Tôn, nhưng thay chữ Chí Tôn bằng chữ Phật Mẫu, xong mỗi Bửu thì lạy Phật Mẫu 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm: Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

    5. Bí Pháp Dâng Tam Bửu.

    Tại sao Ðức Chí Tôn buộc tín đồ dâng Tam Bửu?

    Tại sao trong mỗi thời cúng, Ðức Chí Tôn buộc các Tín đồ Nam Nữ đều phải dâng Tam Bửu lên Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu? Ðiều nầy có phải vì lợi ích cho Chí Tôn hay cho Phật Mẫu không?

    Trả lời: Không, mà trái lại là hoàn toàn vì lợi ích cho Tín đồ, bởi vì đây là Bí Pháp giải thoát cho mỗi Tín đồ.

    Bí Pháp thì phải bí mật, nhưng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nầy, Ðức Chí Tôn ban cho ơn huệ là Ðại Ân Xá, nên Ðức Chí Tôn không giấu giếm Bí Pháp nữa, Ðức Chí Tôn bày ra trước mắt nhơn sanh, để nhơn sanh thấy rõ mà thực hành. Và Ðức Chí Tôn nhấn mạnh: "Gặp Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi được."

    Bí Pháp đó là: Ðức Chí Tôn biểu chúng ta dâng Tam Bửu của chúng ta (Thể xác, Chơn thần, Linh hồn) lên cho Ðức Chí Tôn để Ðức Chí Tôn lấy đó làm phương tiện PHỤNG SỰ VẠN LINH.

    Tại sao gọi đó là Bí Pháp?

    Bởi vì chính nó là phương cách giải thoát chúng ta khỏi vòng Luân hồi để Linh hồn sau khi thoát xác, trở về hiệp nhứt cùng Ðức Chí Tôn nơi cõi thiêng liêng, tức là đắc đạo vậy.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giải thích như sau:

    "Ấy vậy, mỗi ngày, từ mơi tới trưa, đến chiều, từ chiều đến khuya, từ khuya đến sáng, mình vô Ðền Thánh kêu Ðức Chí Tôn, kêu Tam Giáo và các Ðấng Thiêng liêng mà phân chứng trước: Thân tôi không còn là của tôi nữa, tôi đã hiến cho Ðức Chí Tôn, làm tôi tớ cho vạn linh, thay thế cho Ðức Chí Tôn.

    Giờ phút đó, chúng ta không biết tội nào chúng ta đã làm, dầu có tội mà chúng ta không làm điều gì thêm nữa thì quả kiếp ấy tiêu diệt, cơ quan giải thoát chúng ta đoạt, không thế gì định tội được. Ðức Chí Tôn biểu chúng ta không phải là chúng ta, mà chúng ta không phải là chúng ta thì quả kiếp ấy không phải là của chúng ta, tức nhiên ta đã đoạt cơ giải thoát."

    Như vậy, mỗi ngày chúng ta cúng Ðức Chí Tôn, chúng ta đều cầu nguyện dâng Tam Bửu (Thể xác, Chơn thần, Linh hồn, tượng trưng bằng Bông, Rượu, Trà) là dâng toàn thể con người chúng ta cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng, tức là chúng ta hoàn toàn tùy thuộc vào Chí Tôn sai khiến định liệu trong công cuộc Phụng Sự Vạn Linh. Chúng ta không còn điều gì để lo lắng ngoài sự lo lắng làm thế nào thực hiện cho hoàn tất mệnh lệnh của Ðức Chí Tôn ban bố.

    Bí Pháp Giải thoát ấy, Ðức Chí Tôn để hiển hiện ngay trước mắt nhơn sanh mà ít ai để ý suy nghĩ.

    Nhưng việc thực hiện Bí Pháp nầy một các trọn vẹn thì cũng khó khăn vô cùng. Nhưng càng khó khăn thì càng có giá trị xứng đáng. Ðâu có dễ gì đâu? Nhưng không phải là quá khó khăn để không thể thực hiện được.

    Nếu chúng ta có một Ðức Tin mạnh mẽ nơi Ðức Chí Tôn và có một tấm lòng hy sinh, quên mình, thì mọi việc đều trở nên dễ dàng.

    Như thế, cái tấm thân của ta đây, cả Chơn thần và Linh hồn nữa, chúng ta đã giao hết cho Chí Tôn, giao thật sự với đầy đủ ý nghĩa của nó, thì ta không còn gì là của ta nữa, đừng nói chi là của cha mẹ ta hay vợ con ta. Như vậy, cái TA tức là cái NGÃ không còn nữa, thì đâu còn gì để CHẤP NGÃ. Ðây là một phương pháp PHÁ CHẤP triệt để.

    Sự Dâng hiến nầy là để Phụng Sự Vạn linh, nếu chúng ta thi hành một cách chí thành thì đủ đem chúng ta trở về cùng Ðức Chí Tôn, mà không cần làm thêm một điều gì khác nữa.

    Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Ðức Chí Tôn có dạy rằng:

    "Trong các con có nhiều đứa lầm tưởng, hễ vào Ðạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện đạo. Thầy nói cho các con biết, nếu công quả chưa đủ, nhân sự chưa xong, thì không thể nào các con luyện thành đặng đâu mà mong. Vậy muốn đắc quả, thì chỉ có một điều Phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế nầy thì tìm cách khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 101)

    Trong Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn cấm hẳn lối tu "Ðộc thiện kỳ thân", một lối tu ích kỷ, chỉ biết lo cho riêng mình.

    Thể pháp và Bí pháp của Ðạo Cao Ðài đều đặt việc PHỤNG SỰ VẠN LINH là trên hết. Do đó, Bí pháp Luyện đạo trong Tịnh Thất chỉ là phần đặc biệt dành cho những Tín đồ đã đầy đủ công quả Phụng Sự Vạn Linh mà còn sức khỏe.

    Tóm lại, Ðức Chí Tôn buộc chúng ta dâng Tam Bửu cho Ngài là vì Ngài muốn chúng ta thay thế Ngài mà lo "Hoằng khai Ðại Ðạo, Phổ Ðộ chúng sanh", tức là lo Phụng Sự Vạn Linh, bởi vì đó là Bí pháp đắc đạo để chúng ta trở về hội hiệp cùng Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu.

  • Kinh Cúng Tứ Thời: Bài Dâng Hoa

    Bài Dâng Hoa
    (Thài theo giọng Ðảo Ngũ Cung)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Từ bi giá ngự rạng môn thiền, Ðức Chí Tôn đi xe xuống, tỏa hào quang chiếu sáng Thánh Thất.
    2. Ðệ tử mừng nay hữu huệ duyên. Chúng con là học trò của Thầy, ngày nay vui mừng có được cái duyên hưởng ơn huệ của Thầy ban cho.
    3. Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ, Kính dâng lên Năm sắc Hoa tươi để tỏ lòng kính trọng.
    4. Cúi mong Thượng Ðế rưới ân Thiên. Cúi lạy Ðức Chí Tôn, mong Ðức Chí Tôn chan rưới ơn lành.

    (Lạy 1 lạy 4 gật, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy).

    GIẢI NGHĨA

    Thài: là ngâm từng chữ của bài Kinh với giọng ngân thật dài theo giọng của điệu Cổ nhạc Ðảo Ngũ Cung.

    Khi cúng Ðại đàn Ðức Chí Tôn tại Thánh Thất hay khi cúng Ðại đàn Ðức Phật Mẫu tại Ðiện Thờ, đồng nhi thài 3 bài Dâng Tam Bửu, thì Lễ sĩ lần lượt điện dâng lễ phẩm, bước đi theo hình chữ Tâm [] từ Ngoại nghi vào Nội nghi: Lần thứ nhứt: dâng Hoa và Quả; lần thứ nhì: dâng Rượu và Bình rượu; lần thứ ba: dâng Trà và Bình trà.

    Ðảo Ngũ Cung: là điệu nhạc cổ, nhịp đi rất chậm, để đồng nhi cất giọng thài theo.

    Câu 1: Từ Bi giá ngự rạng môn thiền.

    GIẢI NGHĨA

    Từ Bi: Từ là lòng thương tưởng lo lắng giúp ích cho chúng sanh, làm cho họ được an ổn vui vẻ. Bi là lòng trắc ẩn thương cảm các cảnh khổ não của chúng sanh, lúc nào cũng muốn cứu vớt họ ra khỏi phiền não và tai họa.

    Từ bi là lòng thương yêu bao la, thương khắp chúng sanh, muốn giúp chúng sanh thoát khổ.

    Từ bi là hạnh của Phật.

    Trong Câu Kinh 1, Từ Bi là chỉ Ðức Chí Tôn.

    Giá ngự: Giá là xe của vua đi, ngự là tiếng chỉ về vật dụng hay hành động của vua. Giá ngự là xe của vua đi. Ở đây, ý nói là Ðức Chí Tôn dùng xe đi xuống cõi phàm trần.

    Môn thiền: Môn là cửa, Thiền là là yên lặng suy tưởng. Môn thiền hay Thiền môn, dịch là cửa Thiền, chỉ cái chùa thờ Phật làm nơi tu hành. Ở đây, môn thiền là chỉ Thánh Thất để thờ cúng Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng liêng. Rạng: Làm cho sáng.

    Câu 1: Ðức Chí Tôn đi xe xuống, tỏa hào quang chiếu sáng Thánh Thất.

    Câu 2: Ðệ tử mừng nay hữu huệ duyên.

    Ðệ tử: Học trò. Trong Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn xưng mình là Thầy, gọi các tín đồ là môn đệ, và các tín đồ xưng là Ðệ tử.

    Hữu: Có.

    Huệ duyên: Huệ là ơn, duyên là mối dây ràng buộc đã được định sẵn. Huệ duyên là cái duyên được hưởng ơn huệ.

    Câu 2: Chúng con là học trò của Thầy, ngày nay vui mừng có được cái duyên hưởng ơn huệ của Thầy ban cho.

    Câu 3: Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ.

    Kỉnh lễ: Dâng phẩm vật lên để tỏ lòng kính trọng.

    Năm sắc hoa tươi: tượng trưng cho Ngũ Tạng và Ngũ Quan của thân thể con người, tương ứng với Ngũ Hành kể ra như sau đây:

    NGŨ TẠNG: NGŨ QUAN: NGŨ HÀNH:
    Tâm (tim) Lưỡi Hỏa: màu đỏ.
    Can (gan) Mắt Mộc: màu xanh.
    Tỳ (lá lách) Miệng Thổ: màu vàng.
    Phế (phổi) Mũi Kim: màu trắng.
    Thận (thận) Tai Thủy: màu đen.

    Khi dâng Năm sắc Hoa tươi lên cúng Ðức Chí Tôn, cũng nên chọn 5 màu hoa tương ứng với Ngũ Hành. Các hoa màu Vàng, Xanh, Ðỏ, Trắng thì dễ tìm, còn hoa màu đen thì không có, nên có thể chọn hoa màu tím sậm hay đỏ sậm.

    Năm sắc Hoa tươi nầy tượng trưng cho Ngũ quan Ngũ tạng của con người tức là tượng trưng Xác thân con người.

    Câu 3: Kính dâng lên Năm sắc Hoa tươi để tỏ lòng kính trọng.

    Câu 4: Cúi mong Thượng Ðế rưới ân Thiên.

    Thượng Ðế: Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế, ngày nay gọi là Ðấng Cao Ðài.

    Ân Thiên: Ơn Trời.

    Câu 4: Cúi lạy Ðức Chí Tôn, mong Ðức Chí Tôn chan rưới ơn lành.

    CHÚ Ý: Khi cúng Ðức Phật Mẫu, thài tới câu kinh nầy thì đổi chữ "Thượng Ðế" thành chữ "Phật Mẫu": Cúi mong Phật Mẫu rưới ân Thiên.

    Dùng Hoa tượng trưng cho TINH là Thể xác, trùng hợp với sự tích Na Tra nhập xác bông sen tức là Thân thể của Na Tra được tạo bằng bông sen trong Truyện Phong Thần.

    Ðể cứu cha mẹ khỏi bị Ngao Quảng bắt trói hành tội, Na Tra phải tự chặt tay, lóc thịt, mổ bụng chết trước mặt Ngao Quảng Long Vương, đền cho cái tội giết chết Ngao Bính và Lý Lương lúc nọ.

    Hồn Na Tra đêm ấy báo mộng cho mẹ, xin mẹ lập cho một cái miểu tại núi Túy Bình để nhờ hương khói của bá tánh cúng cho linh hồn được mau cứng cát. Bà mẹ liền lén chồng (cha của Na Tra là Lý Tịnh) lên cốt lập miểu cho Na Tra tại núi Túy Bình, đúng theo lời cầu xin. Ðược nửa năm, một hôm tình cờ Lý Tịnh kéo quân qua đó, thấy thiên hạ đến miểu dâng hương rất đông, vì Ông Thần thờ nơi miểu rất linh, ai cầu chi được nấy. Lý Tịnh liền vào xem thử, thấy cốt tượng trên bàn thờ là Na Tra, thì nổi giận, cho rằng Na Tra đã chết rồi mà còn muốn khuấy phá dân chúng, nên Ông đập tượng cho gãy nát và nổi lửa đốt miểu cháy tiêu.

    Hồn Na Tra không còn nơi nương tựa, nên bay về Ðộng Thái Ất để kêu oan với Thầy. Ông Thái Ất bèn gọi Kim Hà đồng tử đi hái 2 cái bông sen và 3 lá sen còn nguyên cọng. Thái Ất liền bẻ 360 khúc cọng sen làm xương, lấy các cánh bông sen đắp lên làm thịt, đắp phủ bên ngoài 3 lá sen làm da, để một hột linh đơn vào giữa, rồi họa phù niệm chú, bắt vía thâu hồn Na Tra, xô nhập vào hình sen rồi hét lớn: Na Tra chưa sống lại còn đợi chừng nào?

    Xảy nghe một tiếng ư, một người hiện ra từ hình sen trổi dậy, mặt như dồi phấn, môi tợ thoa son, con mắt có ngời, cao lớn đẹp đẽ, ấy là Na Tra nhập xác bông sen đó.

    Nhắc lại câu cầu nguyện khi Dâng Hoa: "Con xin dâng mảnh hình hài của con cho Ðức Chí Tôn dùng phương nào thì dùng."

  • Kinh Cúng Tứ Thời: Bài Dâng Rượu

    Bài Dâng Rượu
    (Thài theo giọng Ðảo Ngũ Cung)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Thiên ân huệ chiếu giáng thiền minh, Xin Ðức Chí Tôn ban bố ơn huệ, giáng xuống Thánh Thất.
    2. Thành kỉnh Trường Xuân chước tửu quỳnh. Thành thật kính trọng Ðức Chí Tôn, xin rót chung rượu quí dâng lên.
    3. Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ, Vui vẻ hân hoan cung kính cúi đầu lạy xuống, đều gắng sức làm lễ.
    4. Thoát tai bá tánh ngưỡng ân sinh. Cầu xin cho nhơn sanh thoát khỏi tai họa và hưởng được ơn huệ sống còn.

    (Lạy 1 lạy 4 gật, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy).

    Câu 1: Thiên ân huệ chiếu giáng thiền minh.

    GIẢI NGHĨA

    Thiên ân: Ơn Trời, chỉ Ðức Chí Tôn.

    Huệ: Ơn, làm ơn.

    Chiếu: Soi sáng, ban bố .

    Huệ chiếu: Ðức Chí Tôn ban bố ơn huệ.

    Giáng: Ði xuống.

    Thiền: Yên lặng suy nghĩ, thường nói Thiền môn, chỉ ngôi chùa.

    Minh: Sáng. Thiền minh là yên lặng suy nghĩ cho trí não mở mang sáng suốt. Ở đây, Thiền minh là chỉ Thánh Thất thờ Ðức Chí Tôn.

    Câu 1: Xin Ðức Chí Tôn ban bố ơn huệ, giáng xuống Thánh Thất.

    Câu 2: Thành kỉnh Trường Xuân chước tửu quỳnh.

    GIẢI NGHĨA

    Thành kỉnh: Thành thật kính trọng.

    Trường Xuân: Mùa Xuân lâu dài, mùa Xuân trường cửu. Ðới với dân chúng thì chúc nhau: Sống lâu trăm tuổi. Ðối với hàng Ðại quan thì chúc nhau Thiên tuế (Ngàn năm), Ðối với vua thì chúc là Vạn tuế (Muôn măm). Cho nên đối với Ðức Chí Tôn thì dùng chữ Trường Xuân. Vậy Trường Xuân là chỉ Ðức Chí Tôn.

    Chước tửu: Rót rượu.

    Quỳnh: Một thứ ngọc màu đỏ, thường được các vua chúa cho thợ đẽo gọt làm thành cái chung nhỏ để uống rượu, làm tăng thêm mùi vị thơm ngon của rượu.

    Câu 2: Thành thật kính trọng Ðức Chí Tôn, xin rót chung rượu quí dâng lên.

    Cúng Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng liêng, chúng ta thường dùng Rượu trắng (Bạch tửu), nên chọn loại rượu tốt, có màu trong suốt, thơm ngon.

    Câu 3: Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ.

    GIẢI NGHĨA

    Lạc: Vui vẻ.

    Hứng: Cảm thấy phấn chấn trong lòng.

    Khấu: Lạy, cúi đầu sát xuống đất.

    Cung: Thân mình.

    Khấu cung: Cúi mình lạy xuống.

    Giai: Ðều, cùng.

    Miễn: Gắng sức, cố gắng.

    Lễ: Làm lễ, lạy xuống để tỏ lòng kính trọng.

    Câu 3: Vui vẻ hân hoan cung kính cúi đầu lạy xuống, đều gắng sức làm lễ.

    Câu 4: Thoát tai bá tánh ngưỡng ân sinh.

    GIẢI NGHĨA

    Thoát: Tránh khỏi.

    Tai: Ðiều hại lớn, tai họa.

    Bá tánh: còn đọc là Bách tính, bá là trăm (100), tánh là họ. Bá tánh là trăm họ, chỉ số đông dân chúng, cũng chỉ toàn thể nhơn sanh.

    Ngưỡng: Ngửa mặt trông lên với lòng kính trọng và yêu mến.

    Ân sinh: Ơn để được sống, hưởng ơn huệ để được sống còn.

    Câu 4: Cầu xin cho nhơn sanh thoát khỏi tai họa và hưởng được ơn huệ sống còn.

    Dùng Rượu tượng trưng cho KHÍ là Chơn thần, rất có ý nghĩa về phương diện khoa học.

    Chơn thần ở thể Khí, tức thể Hơi, do Thể xác bốc ra và lấy hình ảnh của Thể xác y như khuôn in rập.

    Còn Rượu là do sự chưng cất, hơi rượu bay lên gặp lạnh đông lại mà thành. Muốn có rượu trắng, người ta dùng gạo hay nếp, ủ cho lên men rượu, nấu cho rượu bốc hơi, rồi dùng nước lạnh ngưng tụ hơi rượu lại thì được rượu. Do dó, Rượu rất dễ bay hơi, dễ biến thành chất khí.

    Như thế, Rượu và Chơn thần có một sự tương đồng về thể, nên việc dùng Rượu trắng tượng trưng Chơn thần là một điều rất hợp khoa học.

    Khi thài xong Bài Dâng Rượu, chúng ta nhớ chấp 2 tay đưa lên trán cầu nguyện: "Con xin dâng Chơn thần của con lên cho Ðức Chí Tôn dùng phương nào thì dùng".

  • Kinh Cúng Tứ Thời: Bài Dâng Trà

    Bài Dâng Trà
    (Thài theo giọng Ðảo Ngũ Cung)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương, Mùi vị thơm ngon của trà như hoa mai mùa Xuân, hoa cúc mùa Thu.
    2. Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương. Lòng thành thật kính dâng lễ vật là chung trà quí.
    3. Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước, Thành kính trông mong Ðức Chí Tôn cứu giúp và ban thêm phước lành.
    4. Khai minh Ðại Ðạo hộ thanh bường. Khai minh nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ của Ðức Chí Tôn để gìn giữ thái bình và an lạc cho nhơn sanh.

    (Lạy 1 lạy 4 gật, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy).

    Câu 1: Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương.

    GIẢI NGHĨA

    Mai xuân: Hoa mai vào mùa Xuân.

    Nguyệt cúc: Hoa cúc vào mùa Thu. Do chữ: Cúc nguyệt, là tháng 8 âm lịch, thuộc mùa Thu, vì vào tháng 8 nầy, hoa cúc tới mùa nở rộ.

    Nói về Hoa thì mỗi mùa trong năm có một thứ hoa đặc trưng. Mùa Xuân thì có hoa mai, mùa Hạ thì có hoa sen, mùa Thu thì có hoa cúc, mùa Ðông thì có hoa đào.

    Vị: Cái cảm giác do lưỡi khi nếm cho biết.

    Hương: Mùi thơm. Vị trà hương: Mùi vị thơm ngon của trà.

    Câu 1: Mùi vị thơm ngon của trà như hoa mai mùa Xuân, hoa cúc mùa Thu.

    Câu 2: Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương.

    GIẢI NGHĨA

    Kỉnh lễ: Dâng phẩm vật lên để tỏ lòng kính trọng.

    Thành tâm: Lòng thành thật.

    Hiến: Dâng lên.

    Bửu: Quí báu.

    Tương: Chất nước để uống.

    Bửu tương: Nước trà quí.

    Câu 2: Lòng thành thật kính dâng lễ vật là chung trà quí.

    Câu 3: Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước.

    GIẢI NGHĨA

    Ngưỡng: Ngửa mặt trông lên với lòng kính trọng và yêu mến.

    Vọng: Trông mong.

    Ngưỡng vọng: Trông chờ, mong mỏi một cách thành kính.

    Từ Bi: chỉ Ðức Chí Tôn.

    Gia: Thêm.

    Tế: Cứu giúp.

    Phước: Ðiều may mắn tốt lành.

    Câu 3: Thành kính trông mong Ðức Chí Tôn cứu giúp và ban thêm phước lành.

    Câu 4: Khai minh Ðại Ðạo hộ thanh bường.

    GIẢI NGHĨA

    Khai: Mở ra.

    Minh: Sáng.

    Khai minh: Mở ra cho sáng.

    Ðại Ðạo: Nền Ðạo lớn, đó là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, gọi tắt là Ðạo Cao Ðài.

    Hộ: Giữ gìn, che chở.

    Thanh bường: do chữ Thanh bình nói trại ra cho đúng vận thơ. Thanh bình là cảnh dân chúng sống bình yên an lạc.

    Câu 4: Khai minh nền Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ của Ðức Chí Tôn để gìn giữ thái bình và an lạc cho nhơn sanh.

    Ðạo Cao Ðài là Ðại Ðạo và xứng đáng là một nền Ðại Ðạo, vì 3 yếu tố chánh sau đây:

    - Thứ nhứt, Giáo chủ Ðạo Cao Ðài là Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế, là Ðấng lớn nhứt, được tôn kính nhứt, quyền pháp nhứt trong Càn Khôn Vũ Trụ nầy. Ðấng ấy là vua của Nhựt Nguyệt Tinh, là chủ của chư Thần Thánh Tiên Phật, là Ðại Từ Phụ của toàn cả chúng sanh.

    - Thứ nhì, Giáo lý của Ðạo Cao Ðài là nguyên căn Giáo lý của các tôn giáo, nên nó dung hợp được các Giáo lý của Tam giáo và Ngũ Chi. Cho nên Ðạo Cao Ðài sẽ thành công trong việc qui nguyên Tam giáo và hiệp nhứt Ngũ Chi.

    - Thứ ba, Ðạo Cao Ðài có nhiệm vụ tận độ 92 ức Nguyên nhân và phổ độ chúng sanh trong thời gian Thất ức niên (700 000 năm), một thời gian rất dài nơi cõi trần, mà không có một tôn giáo nào trước đây có thời gian phổ độ lâu dài như thế.

    Trà tượng trưng THẦN, tức Chơn linh hay Linh hồn.

    Khi thài xong Bài Dâng Trà, chúng ta nhớ cầu nguyện: "Con xin dâng Linh hồn của con cho Ðức Chí Tôn dùng phương nào thì dùng."

    Dâng Trà là dâng Bửu thứ 3 rồi chấm hết, chúng ta nên cầu nguyện dâng luôn cả Thể xác, Chơn thần và Linh hồn: "Con xin dâng cả Thể xác, Chơn thần và Linh hồn của con cho Ðức Chí Tôn tùy phương sử dụng."

  • Kinh Cúng Tứ Thời: Ngũ Nguyện

    Ngũ Nguyện
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Nam mô Nhứt nguyện: Ðại Ðạo hoằng khai,
    Nhì nguyện: Phổ Ðộ chúng sanh,
    Ðiều Nguyện thứ nhứt: Con mong muốn và quyết tâm hoằng khai nền Ðại Ðạo.
    Ðiều Nguyện thứ hai: Con mong muốn và quyết tâm phổ độ chúng sanh.
    3. Tam nguyện: Xá tội đệ tử, Ðiều nguyện thứ 3, con cầu xin Ðức Chí Tôn tha tội cho con.
    4. Tứ nguyện: Thiên hạ thái bình, Ðiều nguyện thứ 4, con cầu xin cho tất cả mọi người trên cõi trần được sống yên ổn hòa bình.
    5. Ngũ nguyện: Thánh Thất an ninh. Ðiều nguyện thứ 5, con cầu xin cho tất cả, từ Càn Khôn Vũ Trụ đến con người, cầu xin cho Hội Thánh, đều được an ninh, điều hòa trật tự, tiến hóa tốt đẹp.

    (Lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy).

    GIẢI NGHĨA

    Ngũ Nguyện: Ngũ là 5, cũng có nghĩa là thứ 5. Cho nên từ ngữ Ngũ Nguyện có 2 nghĩa:

    Ngũ Nguyện là 5 câu cầu nguyện, 5 điều nguyện.

    Ngũ Nguyện là câu nguyện thứ 5, điều nguyện thứ 5.

    Chúng ta nên lưu ý rằng:

    2 câu Nguyện đầu, chữ Nguyện có nghĩa là: Mong muốn và quyết tâm thực hiện.

    3 câu Nguyện sau, chữ Nguyện có nghĩa là: Cầu nguyện, cầu xin Ðức Chí Tôn ban cho.

    Nam mô: do tiếng Phạn là Namah phiên âm ra, có nghĩa là: Qui y, qui mạng, chí tâm hướng, tức là quyết chí vâng theo lời Phật dạy, nguyện hiến trọn đời mình cho Ðạo pháp. Về sau, từ ngữ Nam mô thường dùng làm tiếng khởi đầu cho câu cầu nguyện.

    Câu 1-2: Nhứt nguyện Ðại Ðạo hoằng khai. Nhì nguyện Phổ Ðộ chúng sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Nhứt nguyện: Ðiều nguyện thứ nhứt, tức là Ðiều thứ nhứt mà con mong muốn và quyết tâm thực hiện là: ....

    Ðại Ðạo: Nền Ðạo lớn, đó là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là Ðạo Cao Ðài.

    Hoằng: Rộng lớn.

    Hoằng khai: Mở rộng ra.

    Nhì nguyện: Nhị nguyện, Ðiều nguyện thứ hai, tức là Ðiều thứ nhì mà con mong muốn và quyết tâm thực hiện là...

    Phổ Ðộ: Phổ là bày ra khắp nơi, độ là cứu giúp. Phổ Ðộ là cứu giúp chúng sanh khắp nơi.

    Chúng sanh: Tất cả các loài sanh vật gồm: Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại.

    Trong nghĩa hẹp, chúng sanh là nhơn loại.

    Câu nguyện thứ nhứt, chúng ta phải hiểu theo lối đảo ngữ thì mới phù hợp với câu nguyện thứ 2:

    - Nhứt Nguyện: Hoằng khai Ðại Ðạo,

    - Nhì Nguyện: Phổ độ chúng sanh.

    Ðiều Nguyện thứ nhứt: Con mong muốn và quyết tâm hoằng khai nền Ðại Ðạo.

    Ðiều Nguyện thứ hai: Con mong muốn và quyết tâm phổ độ chúng sanh.

    "Ðức Khổng Tử có nói rằng: "Nhân năng hoằng Ðạo, phi Ðạo hoằng nhân." Nghĩa là: Người có thể mở rộng Ðạo, Ðạo không mở rộng người.

    Người thì có cái biết mà Ðạo thì vô vi. Nhờ cái biết mà người mới làm cho Ðạo rộng lớn ra, chớ Ðạo tự nó không làm cho người rộng lớn ra được. Bởi vì Ðạo lập thành cái cùng cực của người, mà người là cái khí cụ của Ðạo, cho nên Ðạo và người không lìa bỏ nhau được. Người phải dụng lực làm cho cái Ðạo sáng rõ ra. Nếu người không dụng lực, cứ muốn để cho cái Ðạo tự nhiên làm cho người ta lên đến chỗ cao minh quảng đại thì không có bao giờ." (Theo Nho giáo của Trần trọng Kim)

    ■ Muốn hoằng khai nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn, chúng ta phải làm sao?

    Thiển nghĩ, chúng ta phải thuyết đạo, viết sách báo truyền bá và xiển dương Giáo lý, Triết lý của Ðại Ðạo, rồi dùng các phương tiện truyền thông đại chúng phổ biến rộng ra như: Báo chí, Truyền thanh, Truyền hình, Băng từ, để cho mọi người đều biết nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn, rồi truyền bá từ trong nước ra khắp các nước ngoại quốc, đủ các sắc dân.

    ■ Muốn Phổ Ðộ chúng sanh, phải làm sao?

    Sự cứu độ phải có 2 mặt: Cứu độ phần xác và cứu độ phần hồn.

    - Cứu độ phần xác là khi thấy người ta đói thì phải giúp ngay lương thực để cứu đói; khi thấy người ta bịnh hoạn thì phải giúp thuốc men để cứu bịnh; khi thấy người ta rách rưới nghèo nàn thì phải giúp áo quần, mền chiếu; khi thấy người ta thất vọng đau khổ thì phải đến an ủi khuyên lơn, vv.

    - Cứu độ phần hồn là phải gieo vào lòng họ một tín ngưỡng chơn chánh, tin tưởng có Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu là 2 Ðấng Cha Mẹ chung thiêng liêng của toàn chúng sanh, tin tưởng mỗi người đều có một Linh hồn bất diệt do Ðức Chí Tôn ban cho, tin tưởng có Luân hồi quả báo để lo làm lành lánh dữ, tu thân, lập đức bồi công, giải quả tiền khiên, tiêu trừ nghiệp chướng, để sau khi chết, Linh hồn nhẹ nhàng siêu thăng lên cõi Thiêng liêng Hằng sống. Ngoài ra còn phải lo làm Ðám tang cho người chết, giúp đỡ tang gia trong công việc tẫn liệm, tế lễ và an táng, lo cầu siêu, tụng kinh cầu nguyện cho linh hồn người chết được siêu thăng.

    Câu 3: Tam nguyện xá tội đệ tử.

    GIẢI NGHĨA

    Tam nguyện: Ðiều cầu nguyện thứ 3, tức là điều thứ 3 mà con mong muốn cầu xin là: ....

    Xá tội: Tha tội, không trách phạt nữa.

    Ðệ tử: Học trò. Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy Ðạo, xưng mình là Thầy, gọi các tín đồ là môn đệ, và các tín đồ xưng mình là Ðệ tử.

    Câu 3: Ðiều nguyện thứ 3, con cầu xin Ðức Chí Tôn tha tội cho con.

    Làm người nơi cõi trần, mang nặng xác thịt với Thất tình Lục dục, nên không thể tránh được những lầm lỗi trong kiếp sống. Ðiều quan trọng là phải biết suy nghĩ, và luôn luôn tự xét mình, nhận thấy có lỗi thì ăn năn hối cải, quyết không tái phạm nữa. Lúc đó, Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng liêng sẵn sàng tha thứ các tội đã qua của mình.

    Câu 4: Tứ nguyện thiên hạ thái bình.

    GIẢI NGHĨA

    Tứ nguyện: Ðiều cầu nguyện thứ 4, tức là điều thứ 4 mà con mong muốn cầu xin là... .....

    Thiên hạ: Dưới Trời, chỉ nhơn loại. Thiên thượng là Ông Trời ở bên trên, Thiên hạ là nhơn loại ở bên duới. Con người đứng giữa Trời và Ðất, thuộc hàng Tam Tài, được gọi là Tiểu Thiên Ðịa, cho nên nếu con người biết lo tu hành thì sẽ tấn hóa lên hàng Tiên Phật.

    Thái bình: Thái là rất, bình là yên ổn. Thái bình là rất yên ổn, không có loạn lạc hay giặc giã xảy ra.

    Câu 4: Ðiều nguyện thứ 4, con cầu xin cho tất cả mọi người trên cõi trần được sống yên ổn hòa bình.

    Câu 5: Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh.

    GIẢI NGHĨA

    Ngũ nguyện: Ðiều cầu nguyện thứ 5.

    An ninh: Yên ổn và trật tự, các sinh hoạt đều hòa hợp tốt đẹp.

    Thánh Thất: Nghĩa thông thường, Thánh Thất là cái nhà thờ Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thần Thánh Tiên Phật.

    Nếu chúng ta hiểu nghĩa chữ "Thánh Thất" vỏn vẹn như trên thì điều cầu nguyện thứ 5 của chúng ta có phần hẹp hòi ích kỷ. Vả lại khi cúng Ðức Phật Mẫu nơi Ðiện Thờ Phật Mẫu, chúng ta vẫn đọc câu Ngũ nguyện nầy là: "Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh.", chớ Hội Thánh đâu có sửa lại là: "Ngũ nguyện Ðiện Thờ an ninh."!

    Ðiều đó chứng tỏ rằng, chúng ta cần phải hiểu nghĩa chữ "Thánh Thất" một cách rộng rãi bao quát hơn nữa.

    Bởi vì Thánh Thất gồm 3 Ðài: Bát Quái Ðài, Cửu Trùng Ðài, Hiệp Thiên Ðài, trong đó bao gồm toàn cả Càn Khôn Vũ Trụ và Vạn linh. Do đó, chúng ta phải hiểu Thánh Thất là toàn cả, từ cái thật nhỏ cho đến cái thật lớn, cái nhỏ là bản thân con người, cái lớn là toàn thể vũ trụ, bao gồm Thượng Ðế và Vạn linh.

    Bản thân của mỗi người chúng ta cần phải an ninh. Chúng ta đang tiến bước trên đường tu, chúng ta hằng hoài vọng an ninh hơn ai hết. Nếu chúng ta sa vào tửu nhục thì lục phủ ngũ tạng đều mất an ninh, nếu mê đắm vào sắc dục thì thân thể mất an ninh.

    Càn Khôn Vũ Trụ cần phải được an ninh để vận chuyển điều hòa trật tự.

    Ðức Chí Tôn nắm quyền pháp để vận chuyển các quả Ðịa cầu, Nhựt, Nguyệt, Tinh, quay vòng tròn, lên xuống qua lại nhịp nhàng ăn khớp nhau, không bao giờ va chạm. Nếu Vũ Trụ mất an ninh thì sẽ có một cuộc sụp đổ vĩ đại, một cuộc đại tận thế sẽ xảy đến cho Càn Khôn Vũ Trụ.

    Vạn linh cũng cần được an ninh để tiến hóa điều hòa tốt đẹp trên con đường đi đến tận thiện tận mỹ, trở về hiệp nhập vào Khối Ðại Linh quang của Chí Tôn Thượng Ðế.

    Hội Thánh cũng cần được an ninh, điều hòa trật tự thì mới có thể phát triển nền Ðạo, thực hiện nhiệm vụ cao quí tận độ chúng sanh, chuyển đời Hạ Nguơn điêu tàn sang đời Thượng Nguơn Thánh đức.

    Như vậy, an ninh là nhu cầu thiết yếu cho mọi người, mọi giới, mọi lãnh vực.

    Câu 5: Ðiều nguyện thứ 5, con cầu xin cho tất cả, từ Càn Khôn Vũ Trụ đến con người, cầu xin cho Hội Thánh, đều được an ninh, điều hòa trật tự, tiến hóa tốt đẹp.

    Chúng ta cũng cần tìm hiểu, Tại sao Ðức Chí Tôn ban cho chúng ta 5 Câu Nguyện, mà không phải là 4 Câu hay 6 Câu Nguyện?

    Bởi vì với 5 Câu Nguyện nầy, Ðức Chí Tôn có ý dạy chúng ta thực hành trọn vẹn Tam Lập: Lập Ðức, Lập Công, Lập Ngôn.

    Trong Lập Công có: Công phu, Công quả, Công trình.

    ■ Nhứt nguyện Ðại Ðạo hoằng khai: Muốn hoằng khai nền Ðại Ðạo thì phải thuyết giảng giáo lý, viết kinh sách, báo chí, truyền bá cho mọi người biết nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn để nhơn sanh giác ngộ tu hành. Ðó là Lập Ngôn.

    ■ Nhì nguyện Phổ Ðộ chúng sanh: Ðó là Công quả.

    ■ Tam nguyện Xá tội đệ tử: Muốn được Ðức Chí Tôn xá tội thì chúng ta phải lập hạnh giữ gìn giới luật tu hành một cách nghiêm chỉnh để chúng ta không gây thêm ra tội lỗi mới. Ðó là Công trình.

    ■ Tứ nguyện Thiên hạ thái bình: Chúng ta phải cầu nguyện Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu và các Ðấng Thiêng liêng ban ơn huệ cho thế giới được hòa bình, nhơn sanh an lạc. Ðó là Công phu.

    ■ Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh: Muốn được an ninh, chúng ta phải hành động thế nào cho hợp lòng người, thuận Ðạo Trời, để nương theo đó mà đồng tiến hóa cùng Vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ. Ðó là Lập Ðức.

    Mỗi ngày, chúng ta cúng Ðức Chí Tôn, chúng ta đều đọc 5 lời nguyện, là để chúng ta luôn luôn ghi nhớ mà thực hành hằng ngày, để linh hồn chúng ta càng lúc càng tiến hóa, chớ không phải đọc suông, xong thời cúng thì quên hết, như thế chẳng hữu ích gì cho một thời cúng của chúng ta.

  • Phật Mẫu Chơn Kinh

    1). Giải nghĩa chi tiết Phật Mẫu Chơn Kinh.

    Phật Mẫu Chơn Kinh
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Tạo Hóa Thiên Huyền vi Thiên Hậu, Ở từng Trời Tạo Hóa Thiên có Ðấng Phật Mẫu huyền vi mầu nhiệm,
    2. Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì. Ðức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung.
    3. Sanh quang dưỡng dục quần nhi. Dùng Khí Sanh quang để nuôi nấng cho khôn lớn toàn thể con cái của Ngài.
    4. Chơn linh phối nhứt thân vi Thánh hình. Chơn linh phối hiệp làm một với Chơn thần để tạo thành một người nơi cõi thiêng liêng.
    5. Thiên cung xuất vạn linh vạn linh tùng pháp. Ðức Chí Tôn sản xuất ra vạn linh nên vạn linh phải tùng theo Pháp của Ðức Chí Tôn.
    6. Hiệp Âm dương hữu hạp biến sanh. Hòa hợp 2 khí Âm và Dương quang để biến hóa sanh ra.
    7. Càn Khôn sản xuất hữu hình. Sản xuất ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật có hình thể.
    8. Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh. Vận chuyển Bát hồn đầu kiếp xuống trần hóa thành chúng sanh.
    9. Cộng vật loại huyền linh đồ nghiệp. Hiệp tất cả chơn linh của chúng sanh để mưu tính làm sự nghiệp cho mình.
    10. Lập Tam tài định kiếp hòa căn. Lập ra Tam tài (Thiên, Ðịa,Nhơn) sắp đặt cái kiếp sống và cái căn quả của mỗi người.
    11. Chuyển luân định phẩm cao thăng, Nhờ luân hồi chuyển kiếp mà các Chơn linh tiến hóa, được định cho phẩm vị cao trọng hơn.
    12. Hư Vô Bát Quái trị thần qui nguyên. Ðức Phật Mẫu sắp đặt đem các chơn linh trở về gốc là Hư Vô Bát Quái, tức là trở về cùng Ðức Chí Tôn.
    13. Diệt tục kiếp trần duyên oan trái. Tiêu diệt hết các mối dây ràng buộc con người vào cõi trần và những oan trái đã gây ra.
    14. Chưởng Ðào Tiên thủ giải trường tồn. Ðức Phật Mẫu chưởng quản các trái Ðào Tiên để làm phần thưởng cho các chơn linh đắc đạo trở về ăn vào được hằng sống.
    15. Nghiệp hồng vận tử hồi môn, Công nghiệp to lớn của Phật Mẫu là đem con cái trở về ngôi nhà cũ nơi cõi thiêng liêng.
    16. Chí Công định vị vĩnh tồn Thiên cung. Ðức Chí Tôn sắp đặt phẩm vị cho các Chơn linh để được hằng sống nơi cõi thiêng liêng.
    17. Chủ Âm quang thường tùng Thiên mạng. Ðức Phật Mẫu làm chủ Khí Âm quang, luôn luôn tùng mạng lịnh của Ðức Chí Tôn.
    18. Ðộ Chơn thần nhứt vãng nhứt lai. Cứu giúp các Chơn thần mỗi khi đi xuống trần đầu thai hay mỗi khi mãn kiếp trở về.
    19. Siêu thăng phụng liễn qui khai. Khi linh hồn được siêu thăng thì có chiếc xe Tiên mở cửa rước về.
    20. Tiên cung, Phật xứ, Cao Ðài xướng danh. Ðức Chí Tôn gọi tên lên để ban thưởng cho về Cung Tiên Xứ Phật.
    21. Hội nguơn hữu Chí Linh huấn chúng. Cuối Hạ nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, có Ðức Chí Tôn đến dạy dỗ nhơn sanh.
    22. Ðại Long Hoa nhơn chủng hòa ki. Ðại Hội Long Hoa là cơ quan đem các chủng tộc loài người hòa hợp cùng nhau.
    23. Tam Kỳ khai hiệp Thiên Thi. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mở ra phù hợp với Thiên thơ tiền định.
    24. Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên. Trường thi lên phẩm vị Tiên dành cho người may mắn gặp Ðạo và có duyên với Phật.
    25. Trung khổ hải độ thuyền Bát Nhã. Ðức Phật Mẫu đem thuyền Bát vào trong biển khổ để cứu vớt nhơn sanh.
    26. Phước từ bi giải quả trừ căn. Ðức Phật Mẫu ban phước và do lòng từ bi giải trừ căn quả cho nhơn sanh.
    27. Huờn hồn chuyển đọa vi thăng. Người bị Ngũ Lôi tru diệt cho huờn linh hồn và chơn thần sống lại và ân xá các hồn bị đọa nay được siêu thăng.
    28. Cửu Tiên hồi phục Kim Bàn chưởng Âm. Cửu vị Tiên Nương quay trở lại Kim Bàn Diêu Trì Cung để giúp Ðức Phật Mẫu chưởng quản khí Âm quang.
    29.
    30.
    Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,
    Tùng Ðịa chi hóa trưởng Càn Khôn.
    Mười Thiên can bao gồm muôn hình vạn trạng, Thập Thiên can tùng theo Thập nhị Ðịa chi làm biến đổi và lớn rộng thêm Càn Khôn Vũ Trụ.
    31. Trùng huờn phục vị Thiên môn. Nhiều lần cho trở lại ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.
    32. Nguơn linh hóa chủng Quỉ hồn nhứt thăng. Các Nguyên hồn nay hóa thành các loại Quỉ hồn đều được độ rỗi siêu thăng.
    33. Vô siêu đọa quả căn hữu pháp. Không siêu thăng, không đọa đày, căn quả của mỗi người đều có luật pháp định rõ.
    34. Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan. Không có những hình phạt khổ sở do các oan nghiệt của kiếp trước lưu lại (vì Phật Mẫu tiêu diệt hết)
    35. Vô Ðịa ngục, Vô Quỉ quan. Không còn Ðịa ngục, không còn cửa quỉ.
    36. Chí Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên. Ðức Chí Tôn đại khai ân xá để đem tất cả con cái trở về hội hiệp vào một chỗ cùng Ngài.
    37. Chiếu nhũ lịnh Từ Huyên thọ sắc, Chiếu theo lịnh của Ðức Phật Mẫu, mà Phật Mẫu nhận lãnh sắc lịnh của Ðức Chí Tôn,
    38. Ðộ anh nhi Nam Bắc Ðông Tây. Cứu giúp toàn thể con cái của Phật Mẫu khắp nơi trên cõi trần.
    39. Kỳ khai tạo nhứt Linh đài, Mở ra Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là để tạo một khối đức tin lớn,
    40. Diệt hình tà pháp cường khai đại đồng. Tiêu diệt tất cả hình thức của tà quái để mở ra một cách mạnh mẽ xã hội đại đồng cho nhơn loại.
    41. Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch. Hiệp các chủng tộc nhơn loại thành một nhà có cùng chung một tín ngưỡng.
    42. Qui Thiên lương quyết sách vận trù. Phật Mẫu liệu định kế hoạch, vận động toan tính đem cái Thiên lương trở lại làm chủ con người.
    43. Xuân Thu, Phất chủ, Bát Vu, Ba Cổ pháp tượng trưng Tam giáo là: Kinh Xuân Thu (Nho giáo), Cây Phất chủ (Tiên giáo), Bình Bát vu (Phật giáo).
    44. Hiệp qui Tam giáo hữu cầu chí chơn. Ðem Tam giáo trở về hiệp thành một khối mong tạo thành một nền Ðại Ðạo chơn thật.
    45. Phục nguyên nhơn huờn tồn Phật tánh. Ðem các Nguyên nhơn trở về bằng cách hoàn trả và bảo tồn cái bổn tánh thiện lương chơn chánh mà Trời đã ban cho mỗi người.
    46. Giáo hóa hồn hữu hạnh hữu duyên. Giáo hóa các linh hồn có may mắn (gặp Ðạo) và có duyên (với việc tu hành).
    47. Trụ căn quỉ khí Cửu tuyền. Ðức Phật Mẫu giữ yên các Quỉ hồn tại cái gốc của nó là cõi Âm phủ.
    48. Quảng khai Thiên thượng tạo quyền chí công. Ðức Phật Mẫu mở rộng cõi Trời để thi hành cái quyền Công bình thiêng liêng tuyệt đối của Trời.
    49. Lịnh Mẫu Hậu khai tông định Ðạo. Ðức Phật Mẫu ra lịnh mở ra một nền tôn giáo và sắp đặt các việc trong nền tôn giáo ấy.
    50. Ân dưỡng sanh đảm bảo hồn hài. sanh Công ơn của Ðức Phật Mẫu là ra và nuôi dưỡng cho khôn lớn, lại còn gìn giữ linh hồn và chơn thần được toàn vẹn.
    51. Càn Khôn tạo hóa sánh tài. Ðức Phật Mẫu mặc sức trổ tài tạo hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.
    52. Nhứt triêu nhứt tịch kỉnh bài mộ khang. Mỗi buổi sáng, mỗi buổi chiều, mỗi buổi tối, chúng ta phải sắp đặt để đến viếng an Ðức Mẹ.
    53. Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Thiên cảm bái. Chúng con cầu nguyện kính lạy Ðức Phật Mẫu ở từng Trời Tạo Hóa Huyền Thiên huyền diệu với tất cả lòng cảm xúc.
    54. Nam mô Ðại Từ Bi Năng Hỷ Xả Thiên Hậu Chí Tôn Ðại Bi Ðại Ái. Chúng con cầu nguyện với Ðức Phật Mẫu có đức từ bi lớn, đức hỷ xả lớn, đức bác ái lớn, với lòng tôn kính tột bực.

    Lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, mỗi gật niệm: Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

    Nguồn Gốc:

    Ðức Phạm Hộ Pháp có giải nghĩa bài Phật Mẫu Chơn Kinh một cách tổng quát khi Ngài thuyết đạo tại Cửu Long Ðài trước Báo Ân Từ nhân ngày Ðại Lễ Vía Ðức Phật Mẫu vào lúc 4 giờ chiều ngày 15-8-Ðinh Hợi (1947). Bài thích nghĩa nầy có in trong quyển Thuyết Ðạo Ðức Hộ Pháp, quyển 1 trang 64.

    (Soạn giả căn cứ vào bài giải nghĩa nầy của Ðức Phạm Hộ Pháp để giải rộng thêm chi tiết từng chữ và từng câu kinh cho dễ hiểu. Ngoài ra, soạn giả có viết thêm phần chữ Hán để xác định từ ngữ. Ðây là bản phiên dịch Hán văn đầu tiên, chắc không tránh khỏi sai sót, kính mong quí vị góp ý sửa chữa).

    GIẢI NGHĨA

    * PHẬT MẪU: Ðức Phật Mẫu là Bà Mẹ thiêng liêng chung cho cả Vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ, tức là Bà Mẹ thiêng liêng chung cho cả chúng sanh nơi cõi trần.

    Theo Luật Tam Thể Xác Thân, chúng ta biết rằng, mỗi con người nơi cõi phàm trần đều có 3 thể:

    Ðệ nhứt xác thân là xác thân phàm, do tinh huyết của cha mẹ phàm trần tạo nên và được nuôi dưỡng bằng vật chất phàm trần.

    Ðệ nhị xác thân là Chơn thần, tức là xác thân thiêng liêng do Ðức Phật Mẫu dùng 2 nguyên khí Âm quang và Dương quang chứa trong Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung tạo thành, cho nên mới gọi Ðức Phật Mẫu là Ðại Từ Mẫu.

    Thể thứ ba là Chơn linh, hay Linh hồn, là điểm Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho, nên mới gọi Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ.

    Ðức Phật Mẫu được nhơn loại gọi bằng nhiều danh từ khác nhau, tùy theo tôn giáo và địa phương.

    Ở Trung Hoa và Việt Nam, Ðức Phật Mẫu được gọi bằng các danh từ, kể ra sau đây:

    . Diêu Trì Kim Mẫu - Thiên Hậu
    . Kim Bàn Phật Mẫu - Mẫu Hậu
    . Phật Mẫu Diêu Trì - Ðịa Mẫu
    . Cửu Thiên Huyền Nữ - Ðức Mẹ Thiêng liêng
    . Cửu Thiên Nương Nương - Mẫu Nghi
    . Tây Vương Mẫu - Mẹ Sanh.

    Hiện nay, tại Tòa Thánh Tây Ninh, Hội Thánh chưa xây dựng Ðiện Thờ Phật Mẫu chánh thức ở Trung Ương, còn thờ tạm Ðức Phật Mẫu nơi Báo Ân Từ.

    Trong Báo Ân Từ, Ðức Phạm Hộ Pháp dạy đắp tượng Ðức Phật Mẫu lấy theo sự tích Hớn Võ Ðế cung nghinh Ðức Phật Mẫu như sau:

    1. Trên hết là chơn dung của Phật Mẫu cỡi Thanh loan. (Thanh loan là con chim loan màu xanh đặc biệt của Ðức Phật Mẫu)

    2. Kế đó đắp 9 pho tượng của Cửu vị Tiên Nương.

    3. Ðắp thêm 4 pho tượng của 4 Tiên đồng Nữ nhạc cầm quạt và phướn theo hầu Ðức Phật Mẫu. Tên của 4 vị nầy là:

    . Ðổng Song Thành,
    . Hứa Phi Yến,
    . An Phát Trinh,
    . Vương Tử Phá.

    4. Pho tượng Ông Tiên Ðông Phương Sóc, đứng bên hữu và phía dưới Ðức Phật Mẫu, 2 tay bưng một cái dĩa nâng lên khỏi đầu để rước 4 quả Ðào Tiên do Ðức Phật Mẫu ban tặng cho Hớn Võ Ðế.

    5. Pho tượng Ðức Cao Thượng Phẩm quì trước sân Hoa Ðiện để cung nghinh Ðức Phật Mẫu.

    Trong khuôn tượng, đắp lên một cảnh chùa cổ, kiểu xưa, đẹp, gọi là Hoa Ðiện.

    Ðáng lẽ phải tạo hình Hớn Võ Ðế, nhưng vì đời Hớn (Hán) đến nay quá xa thẳm, lại nữa nguyên căn của Hớn Võ Ðế là Chơn linh Hớn Chung Ly trong Bát Tiên giáng sanh. Nay là thời TKPÐ, Bát Tiên lãnh lịnh giáng trần làm Tướng soái cho Ðức Chí Tôn khai Ðạo, Ðức Cao Thượng Phẩm chính là Chơn linh Hớn Chung Ly giáng phàm kỳ nầy, nên tạo hình Ðức Cao Thượng Phẩm thay vào chỗ Hớn Võ Ðế thì thuận hơn.

    * CHƠN KINH: Chơn là thật, Kinh là bài Kinh do các Ðấng Tiên Phật giáng cơ viết ra ban cho để tụng đọc. Chơn Kinh là bài Kinh chơn thật, đúng chơn lý.

    * PHẬT MẪU CHƠN KINH là bài Kinh chơn thật, đúng chơn lý, nói về quyền pháp của Ðức Phật Mẫu nơi cõi Thiêng liêng.

    Câu 1: Tạo Hóa Thiên huyền vi Thiên Hậu,

    GIẢI NGHĨA

    Tạo Hoá Thiên: Tạo hóa là làm ra và làm thay đổi được; Thiên là từng Trời. Tạo Hoá Thiên là từng Trời có nhiệm vụ tạo hóa Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật. Ðó là từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên, do Ðức Phật Mẫu chưởng quản, có Cửu vị Tiên Nương và các vị Tiên Phật khác phụ giúp.

    Huyền vi: Mầu nhiệm huyền diệu. Huyền là sâu kín, Vi là rất nhỏ. Thiên Hậu: Một danh hiệu của Phật Mẫu.

    Câu 1: Nơi từng Trời Tạo Hóa Thiên có Ðức Phật Mẫu huyền vi mầu nhiệm.

    Câu 2: Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì.

    GIẢI NGHĨA

    Chưởng: Nắm giữ, cai quản.

    Kim Bàn: Kim là vàng; Bàn, còn đọc là Bồn, là cái chậu.

    Kim Bàn hay Kim Bồn là cái chậu bằng vàng nơi Diêu Trì Cung mà Ðức Phật Mẫu dùng để chứa các nguyên chất (nguơn chất) tạo nên Chơn thần cho Vạn linh. Kinh Ðệ Cửu cửu có câu:

    Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất,

    Tạo hình hài các bậc nguyên nhân.

    Diêu Trì: Diêu, còn đọc là Dao, là loại ngọc quí do chất hơi kết tụ mà thành; Trì là cái ao. Diêu trì hay Dao trì là cái ao làm bằng ngọc Diêu. Trong Cung của Ðức Phật Mẫu nơi từng Trời Tạo Hóa Thiên, có một cái ao làm bằng ngọc Diêu, nên Cung đó được gọi là Diêu Trì Cung. Ðức Phật Mẫu chưởng quản Cung đó, nên gọi là Phật Mẫu Diêu Trì.

    Câu 2: Ðức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung.

    Ðức Hộ Pháp giải nghĩa 2 câu kinh 1 & 2 như sau:

    "Từng Trời thứ 9 gọi là Cung Tạo Hóa Thiên, có vị cầm quyền năng tạo đoan gọi là Thiên Hậu, nắm cả Kim Bàn, tức là nắm đẳng cấp Thiêng liêng điều khiển Chơn linh, gọi là Phật Mẫu Diêu Trì"

    Câu 3: Sanh quang dưỡng dục quần nhi.

    GIẢI NGHĨA

    Sanh quang: Sanh là sống; Quang là ánh sáng, ở đây có nghĩa là chất có chứa nhiều năng lượng giống như ánh sáng, và năng lượng đó gọi là Quang năng. Sanh quang là năng lượng giống như ánh sáng để nuôi dưỡng sự sống.

    Ðối với con người và các loài sanh vật nơi cõi trần, Sanh quang là khí Oxy (Oxygène hay Dưỡng khí) và ánh sáng mặt trời. Nếu không có 2 chất nầy, vạn vật sẽ chết hết.

    Nơi cõi Thiêng liêng, Sanh quang là khí Thái Cực, phát ra từ ngôi Thái Cực, để nuôi sống Chơn thần của Vạn linh. Ðức Phật Mẫu trụ khí Sanh quang nầy lại, biến thành những quả Ðào Tiên, có đủ sự sống vĩnh cửu, để ban thưởng cho những Chơn thần đắc đạo trở về.

    Dưỡng dục: Dưỡng là nuôi nấng, dục là nuôi lớn. Dưỡng dục là nuôi nấng cho khôn lớn.

    Quần: Nhiều người tụ họp đông đảo.

    Nhi: Con trẻ. Quần nhi là chỉ toàn thể con cái của Ðức Phật Mẫu.

    Câu 3: Ðức Phật Mẫu lấy khí Sanh quang từ ngôi Thái Cực để nuôi dưỡng toàn thể con cái của Ngài.

    Ðức Phạm Hộ Pháp giải nghĩa Câu kinh số 3: "Lấy khí Sanh quang (Fluide de Vitalité) nuôi nấng con cái của Người."

    Câu 4: Chơn linh phối nhứt thân vi Thánh hình.

    GIẢI NGHĨA

    Chơn linh: Linh hồn, là điểm Linh quang do Ðức Chí Tôn chiết ra từ khối Ðại Linh quang của Ngài ban cho mỗi người để tạo ra mạng sống, giữ gìn mạng sống đó và làm chủ điều khiển xác thân.

    Phối nhứt: Phối là sắp xếp cho thỏa đáng, nhứt là một. Phối nhứt là phối hợp làm một.

    Thân: Xác thân.

    Vi: Làm.

    Thánh: Thiêng liêng.

    Hình: Hình thể.

    Thánh hình: Hình thể Thiêng liêng, đó là Chơn thần.

    Câu 4: Chơn linh phối hiệp làm một với Chơn thần để tạo thành một người nơi cõi Thiêng liêng.

    Ðức Phật Mẫu thâu điểm Linh quang từ ngôi Thái Cực để làm Chơn linh, rồi dùng 2 Khí Dương quang và Âm quang trong Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung để tạo thành xác thân thiêng liêng (Chơn thần), bao bọc Chơn linh, phối hiệp Chơn linh và Chơn thần làm một, để tạo thành một con người nơi cõi Thiêng liêng. Ðó là một Nguyên nhân nơi cõi thiêng liêng.

    Khi Nguyên nhân đầu kiếp xuống cõi phàm trần thì Chơn linh và Chơn thần sẽ nhập vào một hài nhi vừa mới lọt lòng bà mẹ phàm trần. Chơn linh tạo nên sự sống và gìn giữ sự sống cho hài nhi, Chơn thần làm khuôn viên hình ảnh cho thể xác phàm của hài nhi. Lúc đó, Chơn linh, Chơn thần và thể xác phàm của hài nhi phối hiệp làm một để tạo thành một con người mới nơi cõi phàm trần.

    Câu 5: Thiên cung xuất vạn linh tùng pháp,

    GIẢI NGHĨA

    Thiên cung: Cung điện của Ông Trời, cung điện của Ðức Chí Tôn.

    Xuất: Ði ra.

    Vạn linh: Vạn là muôn, chỉ một số thật lớn; Linh là Chơn linh, linh hồn. Vạn linh là tất cả các Chơn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ, gồm đủ 8 đẳng cấp Linh hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn.

    Tùng: Theo.

    Pháp: Quyền pháp của Ðức Chí Tôn.

    Ðức Chí Tôn giảng giải chữ Pháp nầy như sau:

    (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 52): "Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế giới nên mới gọi là PHÁP, PHÁP có mới sanh ra Càn Khôn Vạn vật, rồi mới có người nên gọi là TĂNG. Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Ðạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy,"

    Ðức Chí Tôn dùng Pháp tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và Vạn linh, cho nên Vạn linh phải tùng theo Pháp của Ðức Chí Tôn.

    Câu 5: Ðức Chí Tôn ở Thiên cung sản xuất ra Vạn linh, nên Vạn linh phải tùng theo Pháp của Ðức Chí Tôn.

    Câu 6: Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Hiệp: Hòa hợp.

    Âm Dương: Hai khí Âm quang và Dương quang do Thái Cực biến hóa phân ra.

    Hiệp âm dương: Ðức Phật Mẫu đem hai chất khí Âm Dương nầy hòa họp để tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

    Hữu: Có.

    Hạp: Hợp: hợp lại, kết hợp lại với nhau.

    Hữu hạp: Có sự kết hợp lại với nhau.

    Biến sanh: Biến hóa sanh ra.

    Câu 6: Hòa hợp hai khí Âm quang và Dương quang lại với nhau để biến hóa sanh ra (Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật).

    Câu 7: Càn Khôn sản xuất hữu hình.

    GIẢI NGHĨA

    Càn Khôn: Hai quẻ trong Bát Quái, Càn chỉ Trời, Khôn chỉ Ðất. Càn Khôn là Trời Ðất, thường nói Càn Khôn Vũ Trụ (Càn Khôn Vũ Trụ).

    Sản xuất: Chế tạo làm ra.

    Hữu hình: Có hình thể hiện ra mà mắt phàm thấy được. Trái với Hữu hình là Vô hình, mắt phàm không thấy được.

    Câu 7: (Nối tiếp ý nghĩa của Câu 6) Sản xuất ra Càn Khôn Vũ trụ và vạn vật có hình thể.

    Hai chất khí Dương quang và Âm quang không có hình thể sắc tướng. Ðức Phật Mẫu cho hai chất khí nầy phối hợp với nhau để biến hóa sanh ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật có hình thể mà mắt phàm trông thấy được. Như thế, Ðức Phật Mẫu đã dùng cái KHÔNG vô hình vô ảnh biến hoá thành cái SẮC có hình tướng, thấy được bằng mắt phàm.

    Câu 8: Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Bát hồn: Tám phẩm chơn hồn, tám đẳng cấp tiến hóa của Linh hồn. Bát hồn gồm: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.

    Vận chuyển: Ðem đi từ chỗ nầy đến chỗ khác.

    Chúng sanh: Tất cả các loài có sự sống nơi cõi trần. Chúng sanh gồm: Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm, Nhơn loại.

    Câu 8: Ðức Phật Mẫu vận chuyển 8 phẩm Chơn hồn đem đầu kiếp xuống cõi trần để tạo thành chúng sanh.

    Do nơi đây, điều quan trọng mà chúng ta cần nhớ là: Trong chúng sanh, có Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn đầu kiếp trong đó. Ðức Chí Tôn buộc người tu phải ăn chay trường là vì lẽ đó.

    Ðức Cao Thượng Phẩm giáng cơ giảng về Bát Hồn:

    "Ðêm nay, Bần đạo khởi giảng về Bát Hồn là gì?

    Trong Càn Khôn Vũ Trụ có 8 đẳng Chơn hồn là: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.

    Từ lúc Hỗn Ðộn sơ khai, Âm Dương biến hóa, trong Khí Hư Vô đã có sẵn các tế bào. Sau tiếng nổ, Âm Dương phân tách: Khí Dương quang nhẹ nhàng bay lên trên, khí Âm quang là khí chất chứa các tế bào nên lóng xuống dưới.

    Sau một Chuyển, các chất khí trên liên đới tế bào mà tụ lại biến thành vạn vật.

    Khi chưa thành hình thể hữu vi, thì chất khí vẫn là một cục lửa do khí Dương quang đốt cháy, sau đó Diêu Trì Cung thâu Thập nhị Ðịa Chi mà biến khí Dương quang và chất khí làm Ngũ Hành. Vậy cho nên, Ðất, Nước, Sắt, Ðá và Lửa được nẩy sanh trước hết. Ðó là Kim thạch hồn.

    Sau một Chuyển nữa, Nước, Ðất, Ðá, Lửa, và Sắt mới tiêu ra một chất khí và liên đới với các tế bào mà tạo nên Cây cỏ. Ðó là Thảo mộc hồn.

    Sau một Chuyển nữa, Cây cỏ chia tế bào mà liên đới với Ngũ Hành tạo nên Bách thú, trong đó có phần ở khô gọi là Ðiểu thú, còn phần ở nước gọi là Ngư thú. Ðó là Thú cầm hồn. Cầm thú đều là Bách thú.

    Sau một Chuyển nữa, Ngũ Hành hiệp với Thảo mộc mà nuôi thú cầm. Trong Thú cầm, chơn hồn đã bước vào cơ tấn hóa, do đó tạo nên Thỉ Tổ loài người là La Hầu, tức là người Khỉ đó.

    La Hầu lần lần sanh hóa, và nhờ điểm Linh quang của Chí Tôn mà lần đến loài người như hiện giờ, đó là Nhơn hồn.

    Trong Nhơn hồn, từ buổi Tam Chuyển được tấn hóa thêm 4 phẩm nữa là: Thần, Thánh, Tiên, Phật hồn.

    Nhơn hồn nào đã được trọn trung, ấy đã vào Thần vị.

    Biết được nghĩa chánh, bồi bổ đạo Nhơn luân, tức là vào Thánh vị. Ðến Thánh hồn thì lẽ tự nhiên phải thông suốt phần Thế đạo đó vậy.

  • Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu

    1). Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu.

    Kinh Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu
    (Giọng Nam ai)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Kể từ Hỗn Ðộn sơ khai,
    Chí Tôn hạ chỉ trước Ðài Linh Tiêu.
    Kể từ lúc Hỗn Ðộn sơ khai, Khí Hư Vô sanh ra Ðức Chí Tôn, rồi Ðức Chí Tôn ngự trên cái Ðài Cao nơi Ðiện Linh Tiêu truyền lịnh xuống.
    3.
    4.
    Lưỡng Nghi phân khí Hư Vô,
    Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh.
    Khí Hư Vô sanh ra Ðức Chí Tôn và ngôi của Ngài là Thái Cực. Ðức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Ðức Phật Mẫu dùng Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung làm như một cái lò sản xuất để cho Lưỡng Nghi phối hợp tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.
    5. Âm Dương biến tạo Chơn thần, Ðức Phật Mẫu dùng hai khí Dương quang và Âm quang để tạo nên Chơn thần (Xác thân thiêng liêng) cho con người.
    6. Lo cho nhơn vật về phần hữu vi. Ðức Phật Mẫu lo lắng cho người và vật về phần vật chất hữu hình.
    7.
    8.
    Mớm cơm vú sữa cũng tay,
    Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công.
    Một tay Ðức Phật Mẫu lo nuôi dưỡng con cái từ lúc sơ sanh cho đến lúc lớn khôn, đùm bọc với tài năng rất công bình của Ðấng Ðại Từ Mẫu.
    9. Xét vì nhơn vật lẽ đồng, Xét kỹ thì người và vật đều có cùng một lẽ như nhau là do Ðức Phật Mẫu tạo ra.
    10. Chắt chiu hằng để trọn lòng chung thương. Ðức Phật Mẫu luôn luôn nâng niu chăm sóc con cái với tất cả lòng thương yêu.
    11.
    12.
    Chí mong hòa hảo Âm Dương,
    Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.
    Cái ý chí mong muốn của Phật Mẫu là 2 khí Âm Dương hoà hợp tốt đẹp với nhau, để chúng sanh thuận theo đó mà bước tới trên con đường tiến hóa hoàn toàn chơn thật.
    13.
    14.
    Mẫu Nghi hằng giữ lòng đơn,
    Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.
    Ðức Phật Mẫu luôn luôn giữ lòng ngay thẳng tốt đẹp, luôn luôn lo lắng cho toàn thể các con có được tấm thân toàn vẹn.
    15.
    16.
    Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,
    Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.
    Ðức Phật Mẫu đặc biệt thương yêu con cái của Người, thường khóc thầm vì thấy con cái bị lầm đường lạc lối trong bấy lâu nay nên phải chịu nhiều khổ sở nơi cõi trần.
    17.
    18.
    Ðòi phen MẸ luống ưu sầu,
    Cũng vì Tà mị dẫn đường con thương.
    Ðã nhiều lần, Ðức Phật Mẫu lo lắng buồn rầu, vì đám Tà mị dụ dỗ con cái thương yêu của Người để dẫn vào con đường bất chánh.
    19.
    20.
    Ðỉnh chung là miếng treo gương,
    Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.
    Miếng mồi giàu sang danh lợi hấp dẫn những con cái dại dột của Phật Mẫu đi vào con đường lầm lạc, quên mất ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng. Ðó là một tấm gương treo lên cho mọi người biết.
    21. Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi, Con cái của Ðức Phật Mẫu tiêm nhiễm, ưa chuộng các mùi vị ngon ngọt của vật chất nơi cõi trần.
    22. Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường. Con cái đâu có biết nỗi niềm thầm kín đoạn trường của Ðức MẸ.
    23.
    24.
    Ngồi trông con đặng phi thường,
    MẸ đem con đến tận đường hằng sanh.
    Ðức Phật Mẫu ngồi trông mong con cái trở nên những bực phi thường để Người rước đem về cõi Niết Bàn.
    25.
    26.
    Xưa con không thấu cội nhành,
    Vì đường Ðạo bế biệt cành hoa rơi.
    Từ xưa, các con không biết rõ ngọn nguồn, và cũng vì Ðạo bị bế lại mà các con như cánh hoa rơi, phải cách biệt MẸ .
    27.
    28.
    Từ con cách MẸ phương Trời,
    Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần.
    Từ ngày các con cách biệt MẸ tới cả một phương trời, các con phải chịu chơi vơi nơi cõi trần, chìm đắm và bị vùi dập trong vòng khổ não.
    29.
    30.
    Dầu thương nhắm mắt đưa chơn,
    Giờ nay gặp lối nghiệt trần giảm tiêu.
    Dầu thương các con, nhưng MẸ đành để số phận đưa đẩy các con. Ngày nay, các con gặp được con đường Ðạo thì cái nghiệp ác nơi cõi trần của các con sẽ được giảm tiêu (vì nhờ sự Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn).
    31. Ngọc Hư định phép cũng nhiều, Các Ðấng nơi Ngọc Hư Cung lập ra nhiều pháp luật.
    32. Phái Vàng MẸ lãnh dắt dìu trẻ thơ. Trong Ðạo Cao Ðài, Ðức Phật Mẫu lãnh nhiệm vụ dìu dắt con cái tu hành.
    33.
    34.
    Trước kia trẻ vẫn mịt mờ,
    Từ đây mới hản ơn nhờ Mẫu Nghi.
    Trước kia con cái của Phật Mẫu vẫn còn mờ hồ, chưa biết Ðức Phật Mẫu là Bà MẸ thiêng liêng của mình. Từ đây mới biết, hẳn là phải nhờ ơn của Ðức Phật Mẫu.
    35.
    36.
    Ðắc truyền khai mối Tam Kỳ,
    Dưới tay cậy có Diêu Trì Cửu Nương.
    Ðức Phật Mẫu được lịnh truyền của Ðức Chí Tôn, mở ra Ðạo Cao Ðài, và dưới tay nhờ có Cửu vị Tiên Nương Diêu Trì Cung trông nom về Cơ Giáo hóa.
    37.
    38.
    Chín Cô đã sẵn lòng thương,
    Mê tân độ chúng buồm trương thoát vòng.
    Cửu vị Tiên Nương đã sẵn lòng thương yêu chúng sanh, trương cánh buồm của chiếc Thuyền Bát Nhã, chờ nơi Bến mê để cứu vớt chúng sanh đưa sang Bờ giác, thoát vòng Luân hồi.
    39.
    40.
    Lục Nương phất phướn Truy hồn,
    Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.
    Lục Nương cầm phướn Truy hồn phất lên để hướng dẫn các chơn hồn đi lên cõi thiêng liêng. Lục Nương còn có nhiệm vụ bảo tồn chúng sanh trong cuộc đời luôn luôn biến đổi.
    41.
    42.
    Bát Nương thật đấng chí linh,
    Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.
    Bát Nương là Ðấng Nữ Tiên rất thiêng liêng, có nhiệm vụ giáo hóa và ân cần lo lắng giúp đỡ chúng sanh.
    43. Thất Nương khêu đuốc Ðạo đầu, Thất Nương là người đầu tiên khơi lên ánh sáng của một mối Ðạo.
    44. Nhờ người gợi ánh nhiệm mầu huyền vi. Nhờ Thất Nương gợi lên cho nhơn sanh thấy được ánh sáng huyền vi mầu nhiệm của đạo đức.
    45. Môn sanh thiện niệm hằng ngày, Chúng con là Tín đồ của Ðạo Cao Ðài hằng ngày tưởng nghĩ đến điều lành.
    46. Cúi xin Kim Mẫu muôn loài cứu ương. Cúi xin Ðức Phật Mẫu cứu giúp muôn loài sanh vật thoát khỏi tai ương.
    47. Ðê đầu khấu bái Nương Nương, Cúi đầu rạp mình xuống kính lạy Ðức Phật Mẫu.
    48. Nén hương đạm bạc xin thương chứng lòng. Trong cảnh đơn sơ nghèo nàn, xin đốt nén hương kính dâng lên Ðức Phật Mẫu thương xót chứng cho lòng thành.
    Nam mô Tạo Hóa Huyền Thiên Diêu Trì Kim Mẫu.
    Nam mô Tạo Hóa Huyền Thiên Cửu vị Nữ Phật.

    GIẢI NGHĨA

    Tán tụng: Tán là khen ngợi, Tụng là chúc mừng, khen ngợi. Tán tụng là chúc mừng và khen ngợi.

    Công đức: Công là ra sức làm điều lành, đức là những việc làm hợp lòng người, thuận đạo Trời. Công đức là công nghiệp và đức độ giúp người giúp đời.

    Công đức của Ðức Diêu Trì Kim Mẫu đối với chúng sanh, cao sâu và rộng lớn vô cùng, không thể nào lường hết được. Ðối với thế gian, công sanh thành dưỡng dục, giáo hóa của một bà mẹ đối với một đứa con còn không lấy chi đo lường được, huống chi là công đức của Bà MẸ thiêng liêng đối với toàn cả chúng sanh là con cái thương yêu của Người.

    Câu 1-2: Kể từ Hỗn Ðộn sơ khai, Chí Tôn hạ chỉ trước Ðài Linh Tiêu.

    GIẢI NGHĨA

    Hỗn Ðộn: Lộn lạo không phân biệt được các thành phần. Thời Hỗn Ðộn là thời Tiên Thiên, tức là trước khi tạo dựng Trời Ðất, các chất khí còn lẫn lộn vào nhau, chưa phân thanh lóng trược.

    Sơ khai: Sơ là lúc đầu, Khai là mở ra. Sơ khai là mới mở ra lúc đầu.

    Hạ chỉ: Hạ là truyền xuống, Chỉ là mệnh lệnh của vua. Hạ chỉ là vua truyền lịnh xuống cho bề tôi thi hành. Ở đây là Ðức Chí Tôn truyền lịnh xuống.

    Ðài Linh Tiêu: Cái Ðài Cao nơi Linh Tiêu Ðiện Ngọc Hư Cung. Ðây là nơi họp Thiên triều của Ðức Chí Tôn.

    Linh Tiêu nhất tháp thị Cao Ðài,
    Ðại hội quần Tiên thử ngọc giai.
    Vạn trượng hào quang tùng thử xuất,
    Cổ danh bửu cảnh Lạc Thiên Thai.
    (Trích Bài giáng cơ của Ðức Chí Tôn tại Cần Thơ năm 1927)

    Nghĩa là:

    Nơi Ðiện Linh Tiêu có một cái tháp gọi là Cao Ðài,
    Các vị Tiên họp Ðại hội tại bệ ngọc ấy.
    Ánh hào quang từ nơi đó chiếu ra xa đến muôn trượng,
    Tên xưa, cảnh quí báu đó là Lạc Thiên Thai.

    Câu 1-2: Kể từ lúc Hỗn Ðộn sơ khai, Khí Hư Vô sanh ra Ðức Chí Tôn, rồi Ðức Chí Tôn ngự trên cái Ðài Cao nơi Ðiện Linh Tiêu truyền lịnh xuống.

    Câu 3-4: Lưỡng Nghi phân khí Hư Vô, Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Lưỡng Nghi: Hai Nghi: Âm quang và Dương quang, do Thái Cực biến hóa tạo ra.

    Khí Hư Vô: tức Hư Vô chi Khí, là chất khí nguyên thủy của Càn Khôn Vũ Trụ. Khí Hư Vô sanh ra Ðức Chí Tôn và ngôi của Ðức Chí Tôn là Thái Cực.

    Nung lò: Người thợ đốt nóng cái lò để hầm các vật bằng đất sét cho thành đồ gốm.

    Nung lò hóa sanh: Ý nói: Ðức Phật Mẫu dùng Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung như là một cái lò sản xuất để tạo ra vạn vật.

    Câu 3-4: Khí Hư Vô sanh ra Ðức Chí Tôn và ngôi của Ngài là Thái Cực. Ðức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Âm quang và Dương quang. Ðức Phật Mẫu dùng Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung làm như một cái lò sản xuất để cho Lưỡng Nghi phối hợp tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

    Bốn câu thơ 1,2,3,4: đã thi vị hóa Triết lý về Vũ Trụ Quan của Ðạo Cao Ðài, tóm tắt như sau:

    Thuở nguyên thủy chưa có Càn Khôn Vũ Trụ thì trong khoảng không gian bao la chỉ có một khí Hồng Mông còn hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, gọi là Khí Hư Vô hay Hư Vô chi Khí.

    Khí Hư Vô ấy lần lần ngưng kết, nổ ra một tiếng lớn, tạo thành một khối Ðại Linh quang, hào quang chiếu diệu rực rỡ, gọi là Thái Cực, hay là Ðại hồn của Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế (mà chúng ta thường gọi là Ðức Chí Tôn).

    Ðấng ấy được sanh ra đầu tiên hơn hết, trọn lành trọn tốt, toàn năng toàn tri, biến hoá vô cùng.

    Ðấng ấy bắt đầu phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Dương quang và Âm quang. Ðức Chí Tôn chưởng quản khí Dương quang. Còn khí Âm quang chưa có ai chưởng quản, nên Ðức Chí Tôn hoá thân ra làm Phật Mẫu để chưởng quản khí Âm quang. Sau đó Ðức Chí Tôn giao quyền cho Ðức Phật Mẫu dùng 2 khí Dương quang và Âm quang phối hợp, tạo hóa ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

    Câu 5: Âm Dương biến tạo Chơn thần,

    GIẢI NGHĨA

    Âm Dương: Hai khí Âm quang và Dương quang.

    Biến tạo: Biến hóa tạo nên.

    Chơn thần: Xác thân thiêng liêng của con người.

    Câu 5: Ðức Phật Mẫu dùng hai khí Dương quang và Âm quang để tạo nên Chơn thần (Xác thân thiêng liêng) cho con người.

    Một người sống nơi cõi Thiêng Liêng thì phải có xác thân thiêng liêng do Ðức Phật Mẫu, Bà Mẹ thiêng liêng tạo nên. Khi người đó đầu thai xuống cõi phàm trần và sống nơi cõi phàm trần thì phải có thêm một xác thân phàm trần, do cha mẹ phàm trần tạo ra.

    Câu 6: Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.

    GIẢI NGHĨA

    Nhơn vật: Người và vật.

    Hữu vi: Tất cả những gì có hình thể, sắc tướng, thấy được, rờ được. Ðồng nghĩa với Hữu vi là Hữu hình. Trái với Hữu vi là Vô vi, Vô hình.

    Câu 6: Ðức Phật Mẫu lo lắng cho người và vật về phần vật chất hữu hình.

    Câu 7-8: Mớm cơm vú sữa cũng tay,
    Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công.

    GIẢI NGHĨA

    Mớm cơm vú sữa: Mớm cơm cho ăn và cho bú sữa, chỉ việc mẹ nuôi con lúc sơ sanh.

    Dưỡng sanh: Nuôi dưỡng cho lớn lên và sống khỏe mạnh.

    Ðùm bọc: Giúp đỡ, che chở với tất cả tình thương.

    Chí công: Rất công bình, công bình tuyệt đối. Chỉ có Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu mới có được sự công bình tuyệt đối, bởi vì không có sự chi dối trá qua mặt được hai Ðấng ấy.

    Câu 7-8: Một tay Ðức Phật Mẫu lo nuôi dưỡng con cái từ lúc sơ sanh cho đến lúc lớn khôn, đùm bọc với tài năng rất công bình của Ðấng Ðại Từ Mẫu.

    Câu 9: Xét vì nhơn vật lẽ đồng.

    GIẢI NGHĨA

    Nhơn vật: Người và vật.

    Lẽ đồng: Cùng một lý lẽ như nhau, nghĩa là cùng được Ðức Phật Mẫu tạo ra bằng 2 chất khí Dương quang và Âm quang, chỉ có khác nhau ở trình độ tiến hoá mà thôi.

    Câu 9: Xét kỹ thì người và vật đều có cùng một lẽ như nhau là do Ðức Phật Mẫu tạo ra.

    Câu 10: Chắt chiu hằng để trọn lòng chung thương.

    GIẢI NGHĨA

    Chắt chiu: Quí trọng và nâng niu chăm sóc.

    Hằng: Luôn luôn, thường thường.

    Câu 10: Ðức Phật Mẫu luôn luôn nâng niu chăm sóc con cái với tất cả lòng thương yêu.

    Câu 11-12: Chí mong hòa hảo Âm Dương, Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.

    GIẢI NGHĨA

    Chí: Ý chí, cái ý muốn to lớn mạnh mẽ.

    Hòa hảo: Hòa là êm thuận với nhau, Hảo là tốt đẹp. Hòa hảo là thuận hòa tốt đẹp với nhau.

    Âm Dương: Âm quang và Dương quang.

    Thuận: Xuôi theo, thuận theo.

    Căn: Gốc rễ. Cái gốc rễ của con người và muôn vật là hai khí Âm Dương, tức là Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu.

    Vẹn chơn: Hoàn toàn chơn thật.

    Câu 11-12: Cái ý chí mong muốn của Phật Mẫu là 2 khí Âm Dương hoà hợp tốt đẹp với nhau, để chúng sanh thuận theo đó mà bước tới trên con đường tiến hóa hoàn toàn chơn thật.

    Trong Càn Khôn Vũ Trụ, hai khí Âm Dương có điều hòa tốt đẹp thì Càn Khôn mới an tịnh, sự vận chuyển các Ðịa cầu mới nhịp nhàng trật tự. Trong thân thể con người, Âm Dương có điều hòa thì con người mới khỏe mạnh. Trong vạn vật, Âm Dương có điều hòa thì mới sanh hoá và phát triển tốt đẹp.

    Vậy sự hòa hảo Âm Dương là điều kiện tối cần thiết để toàn thể Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật tiến hóa tốt đẹp.

    Câu 13-14: Mẫu Nghi hằng giữ lòng đơn, Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.

    GIẢI NGHĨA

    Mẫu Nghi: Mẫu là mẹ, Nghi là khuôn mẫu, hình thức tốt đẹp đúng theo phép tắc. Ở cõi trần, Mẫu Nghi là Bà Hoàng Hậu của một nước, tức là Bà mẹ gương mẫu cho các bà mẹ khác trong dân chúng. Ở cõi thiêng liêng, Mẫu Nghi là Ðức Phật Mẫu, Bà mẹ thiêng liêng của toàn chúng sanh.

    Lòng đơn: chữ Hán là Ðơn tâm (Ðan tâm). Ðơn là màu đỏ như son, nên dịch chữ Ðơn tâm là Lòng son, nghĩa là tấm lòng ngay thẳng tốt đẹp không phai như màu đỏ của son.

    Mảng: Ðặt hết tâm trí vào làm một công việc.

    Trẻ: Chỉ toàn cả con cái của Phật Mẫu.

    Mảnh thân: Tấm thân.

    Câu 13-14: Ðức Phật Mẫu luôn luôn giữ lòng ngay thẳng tốt đẹp, luôn luôn lo lắng cho toàn thể các con có được tấm thân toàn vẹn.

    Câu 15-16: Riêng thương, Kim Mẫu khóc thầm, Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.

    GIẢI NGHĨA

    Riêng thương: Thương yêu một cách đặc biệt.

    Kim Mẫu: Một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu.

    Khóc thầm: Khóc mà không để cho người khác biết.

    Biển trần: Cõi trần được ví như một biển khổ, con người sống trong cõi trần là đang ngụp lặn trong biển khổ ấy.

    Lạc lầm: Lầm lạc, gây ra điều sai trái vì mê muội không nhận ra lẽ phải.

    Câu 15-16: Ðức Phật Mẫu đặc biệt thương yêu con cái của Người, thường khóc thầm vì thấy con cái bị lầm đường lạc lối trong bấy lâu nay nên phải chịu nhiều khổ sở nơi cõi trần.

    Câu 17-18: Ðòi phen MẸ luống ưu sầu, Cũng vì Tà mị dẫn đường con thương.

    GIẢI NGHĨA

    Ðòi phen: Ðòi là nhiều, phen là lần. Ðòi phen là nhiều lần.

    MẸ: Ðức Phật Mẫu.

    Luống: Mức độ nhiều lần.

    Ưu sầu: Lo lắng buồn rầu.

    Tà mị: Tà là cong vạy, mị là phỉnh nịnh để lừa dối. Tà mị là những kẻ có lòng dạ không ngay thẳng, hay nịnh hót để lừa gạt người.

    Câu 17-18: Ðã nhiều lần, Ðức Phật Mẫu lo lắng buồn rầu, vì đám Tà mị dụ dỗ con cái thương yêu của Người để dẫn vào con đường bất chánh.

    Câu 19-20: Ðỉnh chung là miếng treo gương, Khiến nên trẻ dại lạc đường quên ngôi.

    GIẢI NGHĨA

    Ðỉnh chung: Ðỉnh là cái vạc lớn, chung là cái chuông báo hiệu. Ðiển tích: Mạnh Thường Quân làm quan Tướng Quốc nước Tề, nổi tiếng chiêu hiền đãi sĩ. Trong nhà luôn luôn có cả ngàn tân khách, đều là người tài giỏi để lo bàn việc nước. Nhà bếp phải dùng nhiều vạc lớn để nấu cơm, và khi tới giờ ăn cơm, phải đánh chuông báo hiệu, mọi người mới nghe biết được. Do điển tích nầy, từ ngữ Ðỉnh chung hay Chung đỉnh là để chỉ sự giàu có sang trọng.

    Miếng: Một cái, một món. Tiếng dùng có ý khinh bỉ.

    Treo gương: Treo lên cao để làm gương cho mọi người.

    Ngôi: Phẩm vị nơi cõi thiêng liêng, thường nói là: Ngôi vị.

    Câu 19-20: Miếng mồi giàu sang danh lợi hấp dẫn những con cái dại dột của Phật Mẫu đi vào con đường lầm lạc, quên mất ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng. Ðó là một tấm gương treo lên cho mọi người biết.

    Câu 21: Ngọt ngon trẻ nhiễm mến mùi,

    GIẢI NGHĨA

    Ngọt ngon: Chỉ chung những thứ hấp dẫn làm thỏa mãn các giác quan của thể xác.

    Trẻ: Tiếng mà Ðức Phật Mẫu dùng gọi con cái.

    Nhiễm: Thấm sâu vào.

    Mến: Ưa chuộng.

    Câu 21: Con cái của Ðức Phật Mẫu tiêm nhiễm, ưa chuộng các mùi vị ngon ngọt của vật chất nơi cõi trần.

    Câu 22: Trẻ nào có biết khúc nôi đoạn trường.

    GIẢI NGHĨA

    Khúc nôi: Nỗi niềm tâm sự thầm kín khó nói ra.

    Ðoạn trường: Ðoạn là cắt đứt ra từng khúc, trường là ruột. Ðoạn trường là đứt ruột, ý nói sự đau đớn dữ dội như ruột bị cắt đứt từng đoạn.

    Câu 22: Con cái đâu có biết nỗi niềm thầm kín đoạn trường của Ðức MẸ.

    Câu 23-24: Ngồi trông con đặng phi thường, MẸ đem con đến tận đường hằng sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Ngồi trông: Cử chỉ của Bà MẸ ngồi thắc thỏm trông mong con cái trở về.

    Phi thường: Phi là chẳng phải, thường là bình thường. Phi thường là chẳng phải bình thường, tức là vượt lên trên sự bình thường. Bình thường là ham thích lợi danh, say mê tửu sắc, ưa chuộng vật chất; Phi thường là xa lánh lợi danh, khinh thường vật chất, xem trọng đạo đức tinh thần, phát tâm tu hành, mong ngày sau đắc quả, linh hồn được trở về ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

    Hằng sanh: Hằng sống. Con đường hằng sanh là con đường Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Tận: Cuối.

    Tận đường hằng sanh: Chỗ cuối của con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, mà Ðạo Phật gọi là Niết Bàn.

    Câu 23-24: Ðức Phật Mẫu ngồi trông mong con cái trở nên những bực phi thường để Người rước đem về cõi Niết Bàn.

    Câu 25-26: Xưa con không thấu cội nhành, Vì đường Ðạo bế biệt cành hoa rơi.

    GIẢI NGHĨA

    Thấu: Biết rõ.

    Cội nhành: Cội cây và nhánh cây, ý nói đầu đuôi gốc ngọn.

    Ðường Ðạo bế: Con đường Ðạo bị đóng lại, bế tắc.

    Ðạo là con đường để cho các bậc Thánh Tiên bị đọa trần do theo mà trở về cựu vị. Ðạo cũng là con đường để cho các phẩm chơn hồn do theo mà tiến hóa để đoạt phẩm vị cao trọng hơn. Như vậy, Ðạo luôn luôn có (hằng hữu), không bao giờ mất đi hay bị tiêu diệt, chỉ có trường hợp Ðạo bị bế hay Ðạo được khai ra mà thôi.

    Việc Bế Ðạo hay Khai Ðạo, tỉ như một dòng suối, phát khởi từ hồi Khai Thiên Lập Ðịa, nước cứ chảy mãi, không bao giờ dứt. Trải qua nhiều thời gian, cỏ rác lần lần phủ lấp dòng suối, đến một lúc nào đó thì mặt nước dòng suối bị phủ kín hoàn toàn, không ai còn nhìn thấy dòng suối ấy nữa. Cỏ rác dần dần thu hẹp dòng suối, đó là thời kỳ Chơn truyền của Ðạo bị người phàm sửa cải nên sai lạc một phần. Ðến khi dòng suối bị cỏ rác phủ kín hoàn toàn thì Chơn truyền của Ðạo đã bị sửa đổi hoàn toàn đến sai lạc hẳn. Ðó là thời kỳ Ðạo bị bế. Người tu bị lầm lạc, tu không đúng Chơn truyền nên công đức có nhiều mà đắc quả thì không, tức tu nhiều mà thành thì rất ít.

    Sau đó, có một vị thông minh sáng suốt phi thường, biết rõ nơi đây có dòng suối mát đã bị phủ kín, liền đến đó, dùng dao xẻn phát cỏ chặt cây, dọn hết rác rến cho quang đãng sạch sẽ, dòng suối mát liền lộ ra và nhơn loại được hưởng nước suối mát đó. Ðó là thời kỳ Ðạo khai, và vị khai quang đó là một Ðấng Giáo chủ mở ra một Chơn truyền mới cho nhơn sanh tu hành đắc đạo.

    Ðạo bế hay Ðạo khai cứ luân chuyển nhau mãi, Ðạo khai ra rồi lại bế, bế một thời gian rồi lại được khai ra.Nhưng Ðạo vẫn là Ðạo, Ðạo vẫn như nhiên, luôn luôn tồn tại và lưu hành mãi mãi trong Càn Khôn Vũ Trụ.

    "Vốn từ Lục Tổ, Phật giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành; Chánh pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh giáo, lập riêng pháp luật buộc mối Ðạo Thiền. .... Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành Ðạo. ... Ôi! Thương thay! Công có công mà thưởng chưa hề có thưởng, vì vậy mà TA rất đau lòng." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 22)

    Câu 25-26: Từ xưa, các con không biết rõ ngọn nguồn, và cũng vì Ðạo bị bế lại mà các con như cánh hoa rơi, phải cách biệt MẸ .

    Câu 27-28: Từ con cách MẸ phương trời, Trầm luân khổ hải chơi vơi sóng trần.

    GIẢI NGHĨA

    Trầm luân: Trầm là chìm, luân là chìm đắm. Trầm luân là chìm đắm.

    Khổ hải: Biển khổ, bể thảm. Con người sống trong cõi trần như là đang ngụp lặn trong biển khổ.

    Chơi vơi: Trơ trọi giữa biển khơi mênh mông, không biết bám víu vào đâu.

    Sóng trần: Những làn sóng trên biển khổ vùi dập con người đang ngụp lặn trong biển khổ ấy.

    Thi sĩ Ðoàn như Khuê cảm tác bài thơ Bể thảm, trích 4 câu đầu:

    Bể thảm mênh mông sóng lụt trời,
    Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi.
    Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió,
    Coi lại cùng trong bể thảm thôi.

    Câu 27-28: Từ ngày các con cách biệt MẸ tới cả một phương trời, các con phải chịu chơi vơi nơi cõi trần, chìm đắm và bị vùi dập trong vòng khổ não.

  • Kinh Giải Oan

    Kinh Giải Oan
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Vòng xây chuyển vong hồn tấn hóa. Nhờ luân hồi chuyển kiếp, linh hồn con người mỗi lúc một tiến hóa tốt đẹp hơn, cao siêu hơn.
    2. Nương xác thân hiệp ngả Càn khôn. Linh hồn phải nương dựa vào xác thân phàm để đi vào con đường Ðạo, lo việc tu hành.
    3. Bước đường sanh tử đã chồn. Bước đi trên con đường luân hồi, qua nhiều lần sanh tử, nên đã mỏi mòn chán nãn.
    4. Oan oan nghiệt nghiệt dập dồn trái căn. Nhiều thứ oan nghiệt của kiếp trước dồn dập kéo tới là những món nợ đòi hỏi kiếp nầy mình phải đền trả.
    5. Luật nhơn quả để răn Thánh đức. Ðức Chí Tôn lập ra Luật Nhân quả để răn dạy nhơn sanh phải biết tuân theo mà đi trọn con đường Thánh đức.
    6. Cửa Luân hồi nhắc bực cao siêu. Cửa vào vòng Luân hồi là để con người học hỏi tiến hóa, nâng mình lên phẩm vị cao siêu.
    7. Dầu chăng phải mực Thiên điều. Dầu thế nào đi chăng nữa, phải tuân Thiên điều, không được vượt qua mức giới hạn qui định trong Thiên điều.
    8. Cũng quyền tự chủ dắt dìu Thiên lương. Mỗi người, ai cũng có cái quyền tự chủ, định đoạt cuộc đời mình theo sự dìu dắt của Lương tâm.
    9.
    10.
    Dòng khổ hải hễ thường chìm đắm,
    Mùi đau thương đã thấm Chơn linh.
    Khi con người mãi mãi luân chuyển chìm đắm trong cõi trần thì những nỗi đau thương sẽ thấm sâu vào Chơn linh, làm Chơn linh rất đau khổ.
    11. Dây oan xe chặt buộc mình. Những oan nghiệt gây ra tạo thành những sợi dây oan nghiệt vô hình buộc chặt Chơn thần mình vào cõi trần.
    12. Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân. Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân, là Lục dục và Thất tình xúi giục, xô đẩy con người vào vòng vật chất thấp hèn làm cho các thứ nhơ bẩn thấm vào xác thân.
    13. Chịu ô trược Chơn thần nặng trịu. Chơn thần phải chịu ô trược nặng nề, nên khi Chơn thần xuất ra khỏi thể xác thì nó nặng trĩu, không thể bay bổng lên được.
    14. Mảnh hình hài biếng hiểu lương tâm. Thể xác làm lơ trước những điều dạy bảo của lương tâm.
    15. Phong trần quen thú cung âm. Ðã từng trải và quen thuộc các thú vui chơi đàn hát nơi chốn ca lâu kỹ viện.
    16. Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm Phong đô. Trong kiếp sanh đã làm nhiều điều lầm lạc sai trái, nên khi chết đi, Chơn thần xuất ra, nhìn con đường đi về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà lòng ngẩn ngơ vì không thể lên đó được, bị đưa về cõi Âm Quang để tự xét mình và ăn năn sám hối tội tình.
    17.
    18.
    Khối trái chủ nhẫng lo vay trả.
    Mới gây nên nhân quả nợ đời.
    Ðám chủ nợ và đám con nợ, kẻ chỉ lo việc cho vay và đòi nợ, kẻ thì chỉ lo việc trả nợ, mới tạo nên việc nhân quả và cái nghiệp nơi cõi đời.
    19. Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi. Thân mình đâu có được rảnh rang (vì còn ở trong vòng vay trả) để đặng thong dong nhàn hạ.
    20. Thiên cung lỡ lối chơi vơi cõi trần. Lỡ đường về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, đành chịu trơ trọi bơ vơ nơi cõi trần.
    21.
    22.
    May đặng gặp hồng ân chan rưới,
    Giải trái oan sạch tội tiền khiên.
    May mắn gặp được ơn huệ to lớn của Ðức Chí Tôn ban cho đầy dẫy, để cởi bỏ hết những mối nợ oan nghiệt và rửa sạch tiền khiên.
    23. Ðóng Ðịa ngục, mở tầng Thiên. Ðức Chí Tôn cho đóng cửa Ðịa ngục để phóng thích các tội hồn, và mở rộng cửa các từng Trời để đón tiếp những linh hồn đắc đạo.
    24. Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương. Ðức Chí Tôn ra lịnh khai thông con đường dẫn tới cõi Cực Lạc Thế Giới ở về phía Tây, để những linh hồn đắc đạo đến được nơi đó mà an hưởng ngôi vị.
    25. Nhập Thánh thể dò đường cựu vị. Nhập Thánh thể dò đường cựu vị, nghĩa là: Ði vào làm Thánh thể của Ðức Chí Tôn thì mới dò tìm được con đường trở về ngôi vị cũ.
    26. Noi chơn truyền khử quỉ trừ ma. Học tập và làm đúng theo giáo lý Chơn truyền thì khử trừ được bọn ma quỉ phá phách.
    27. Huệ quang chiếu thấu chánh tà. Dùng ánh sáng Trí Huệ soi rọi thì mới rõ thấu được lẽ Chánh và lẽ Tà.
    28. Chèo thuyền Bát Nhã Ngân hà độ sanh. Ðức Quan Âm Bồ Tát chèo chiếc Thuyền Bát Nhã đi qua đi lại trên sông Ngân hà thuộc biển khổ để cứu giúp những người đầy đủ phước đức đưa qua bờ giác đi vào cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
    29. Cứ nương bóng Chí Linh soi bước. Cứ dựa theo ánh sáng của Ðức Chí Tôn soi rọi mà bước tới.
    30. Gội mê đồ tắm nước Ma-Ha. Gội rửa cho sạch hết những cái u mê lầm lạc và tắm bằng nước sông Hằng để rửa sạch những oan nghiệt tội tình của kiếp sống.
    31. Liên đài may nở thêm hoa. Rất may mắn có thêm một vị Phật mới đắc đạo, cho nên Tòa sen nở thêm một cái hoa để làm tòa ngự cho Ngài.
    32. Lão Ðam cũng biết, Thích Già cũng quen. Khi đắc đạo rồi thì lên bái kiến Ðức Lão Tử, tức là Ðức Thái Thượng Lão Quân, và bái kiến Ðức Phật Thích Ca.

    (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

    Nguồn Gốc:

    Kinh Giải Oan do Ðức Phạm Hộ Pháp đặt ra, có cầu Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ chỉnh văn lại.

    Theo lời Sĩ Tải Huỳnh văn Hưởng thì 4 câu kinh cuối của bài Kinh Giải Oan bài do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ viết tiếp cho trọn ý nghĩa của bài.

    Kinh Giải Oan để đồng nhi tụng trước khi vị Chức sắc hành Pháp Giải Oan cho một tín đồ, mục đích của Phép Giải Oan nằm trong ý nghĩa của bài kinh nầy và trong một số câu kinh của các bài kinh khác, xin trích ra sau đây:

    Dầu trọn kiếp sống không nên đạo,
    Dầu oan gia tội báo buộc ràng.
    Chí Tôn xá tội Giải Oan,
    Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ vong.
    (KCHKHH)

    Phép Giải Oan độ hồn khỏi tội.
    (KHH)

    Chí Tôn xá tội Giải Oan,
    Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ căn.
    (KCBCTBCHÐQL)

    Giải Oan: Giải là cởi bỏ ra, Oan là thù giận. Giải oan là cởi bỏ tất cả oán thù đã gây ra trong nhiều kiếp trước, tức là cởi bỏ những oan nghiệt tiền khiên. Ðó là những nghiệp chướng nặng nề, nếu không cởi bỏ thì nó sẽ báo ứng gây ra nhiều trở ngại và tai họa đau khổ cho kiếp sống hiện tại.

    Câu 1: Vòng xây chuyển vong hồn tấn hóa.

    GIẢI NGHĨA

    Vòng xây chuyển: Chỉ bánh xe luân hồi, tức là sự luân hồi chuyển kiếp của con người nơi cõi trần.

    Vong hồn: Vong là chết, hồn là linh hồn. Vong hồn là linh hồn của người chết.

    Tấn hóa: Tiến hóa, thay đổi mỗi lúc một tốt đẹp và cao siêu hơn. Luật Tiến hóa chi phối khắp Càn Khôn Vũ Trụ. Vạn vật luôn luôn tiến hóa, nên Càn Khôn cũng luôn luôn tiến hóa.

    Sự tiến hóa của Vật chất, Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm là sự tiến hóa tự nhiên do các Ðấng Thiêng liêng thúc đẩy; còn sự tiến hóa của con người là do học hỏi và tu luyện, bởi vì con người có hiểu biết và suy nghĩ.

    Linh hồn con người đầu kiếp xuống trần là để học hỏi và tiến hóa. Ðầu tiên con người học làm ác, để được quả báo mà chiêm nghiệm việc ác; học ác xong đến chán rồi thì bắt qua học thiện, làm việc thiện để nhận được quả báo mà chiêm nghiệm việc thiện, rồi thấy việc thiện rất có lợi cho linh hồn nên tiếp tục làm thiện mãi, nhờ thế mới tiến hóa lên các phẩm Thần Thánh Tiên Phật.

    Câu 1: Nhờ luân hồi chuyển kiếp, linh hồn con người mỗi lúc một tiến hóa tốt đẹp hơn, cao siêu hơn.

    Câu 2: Nương xác thân hiệp ngả Càn khôn.

    GIẢI NGHĨA

    Nương: Dựa vào.

    Xác thân: Thể xác phàm.

    Hiệp: Hợp vào.

    Ngả: Lối đi, đường đi.

    Càn khôn: Hai quẻ trong Bát Quái tượng trưng Âm Dương, mà nguyên lý Âm Dương là Ðạo.

    Hiệp ngả Càn khôn: Ý nói hợp vào con đường Ðạo, tức là theo Ðạo lo việc tu hành.

    Câu 2: Linh hồn phải nương dựa vào xác thân phàm để đi vào con đường Ðạo, lo việc tu hành.

    Linh hồn nơi cõi thiêng liêng, muốn được cao thăng phẩm vị, thì phải đầu kiếp xuống trần, để có xác thân phàm, mới có được TINH. Nhờ có xác thân phàm mới lập được công quả và phước đức, sau đó được truyền cho phép luyện đạo, để luyện TINH, KHÍ, THẦN hiệp nhứt, đắc đạo tại thế, linh hồn được cao thăng phẩm vị, trở thành Tiên, Phật.

    Câu 3: Bước đường sanh tử đã chồn.

    GIẢI NGHĨA

    Ðường sanh tử: Con đường luân hồi, hết sanh rồi tới tử, tử rồi lại chuyển kiếp để được sanh ra, ... cứ thế tiếp diễn như bánh xe quay tròn.

    Chồn: Mỏi, chán (mỏi gối chồn chân)

    Câu 3: Bước đi trên con đường luân hồi, qua nhiều lần sanh tử, nên đã mỏi mòn chán nãn.

    Câu 4: Oan oan nghiệt nghiệt dập dồn trái căn.

    GIẢI NGHĨA

    Oan: Thù giận.

    Oan oan: Nhiều thù giận nối tiếp.

    Nghiệt: Cái nghiệp ác, cái mầm ác gây ra tai họa. Việc làm ác gây ra nghiệp ác để chờ cơ hội thì báo ứng về sau.

    Nghiệt nghiệt: Nhiều nghiệp ác cứ nối tiếp nhau.

    Dập dồn: Dồn dập, kéo đến liên tiếp.

    Trái: Món nợ.

    Căn: Gốc rễ.

    Trái căn: Những món nợ có gốc rễ từ kiếp trước, nay kiếp nầy phải đền trả.

    Câu 4: Nhiều thứ oan nghiệt của kiếp trước dồn dập kéo tới là những món nợ đòi hỏi kiếp nầy mình phải đền trả.

    Câu 5: Luật nhơn quả để răn Thánh đức.

    GIẢI NGHĨA

    Luật nhơn quả: Nhơn hay Nhân là cái nguyên nhân, ví như cái hột; quả là cái trái, kết quả. Nhơn quả là hột và trái. Một cái hột, ương lên thành một cái cây, cây lớn lên sanh trái, trong trái có hột mới, đem ương hột mới thì có cây mới, ... Nhân quả, quả nhân, cứ thế nối tiếp nhau mãi.

    Như vậy, NHÂN là cái năng lực phát động, QUẢ là sự hình thành của cái năng lực phát động đó. Nhân và Quả là 2 trạng thái nối tiếp nhau, nương tựa vào nhau. Nếu không Nhân thì không có Quả, nếu không Quả thì ắt không Nhân.

    Ðức Chí Tôn là Ðấng chí công vô tư, không vì thương mà thưởng, không vì ghét mà phạt. Ðấng ấy chỉ lập ra Luật Nhân Quả để thực hiện sự Công Bình thiêng liêng mà điều hành sự Tiến hóa trong Càn Khôn Vũ Trụ.

    Hễ Nhân nào thì Quả nấy, trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu, gieo gió thì gặt bão, nhứt định không bao giờ sai chạy. Nhân và Quả cứ tiếp tục báo ứng nhau mãi, từ kiếp nọ sang kiếp kia, mãi mãi trói buộc con người vào vòng oan nghiệt nơi cõi trần.

    Răn: Ngăn cấm, hăm he để dạy bảo.

    Thánh đức: Cái đức tốt của bực Thánh. Người có Thánh đức là người có tâm lành, cam thọ khổ để giúp nhơn sanh hết khổ, suốt đời đi trọn vẹn trên con đường đạo đức.

    Câu 5: Ðức Chí Tôn lập ra Luật Nhân quả để răn dạy nhơn sanh phải biết tuân theo mà đi trọn con đường Thánh đức.

    Câu 6: Cửa Luân hồi nhắc bực cao siêu.

    GIẢI NGHĨA

    Luân hồi: Luân là cái bánh xe, hồi là quay trở lại. Luân hồi, nghĩa đen là cái bánh xe quay đi rồi trở lại. Ðức Phật ví kiếp sống của con người vơí sự sinh tử như là cái bánh xe quay tròn, tiếp diễn mãi mãi. Như thế, Luân hồi chỉ là sự diễn biến liên tục của Nhân và Quả, nhưng tính theo đơn vị thời gian là một kiếp sống con người. Kiếp trước là Nhân, kiếp sống hiện tại là Quả, và cũng là Nhân cho kiếp sau, cứ thế tiếp diễn mãi. Khi còn ở trong vòng Luân hồi thì phải chịu trong vòng Tứ Khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Hễ thoát khỏi Luân hồi thì hết Khổ, được trở về Cực Lạc Niết Bàn. Ðó là mục đích của người tu.

    Bực cao siêu: Hạng người tài giỏi.

    NHẮC: có 2 nghĩa:

    - Nghĩa thứ nhứt là: Nhắc nhở cho nhớ.
    - Nghĩa thứ hai là: Nâng lên (người miền Bắc thường nói là: Nhấc).

    Do đó Câu kinh 6 được giải thích theo 2 cách:

    1) Cửa vào vòng Luân Hồi nhắc nhở các bực tài giỏi ghi nhớ ráng làm sao cho thoát khỏi.
    2) Cửa vào vòng Luân hồi là để con người học hỏi tiến hóa, nâng mình lên phẩm vị cao siêu.

    Câu 7: Dầu chăng phải mực Thiên điều.

    GIẢI NGHĨA

    Dầu chăng: Dầu thế nào đi chăng nữa.

    Mực: Cái lằn mức giới hạn.

    Thiên điều: Các điều khoản Luật pháp của Trời, được các Ðấng Thần Thánh Tiên Phật họp Ðại hội tại Ngọc Hư Cung lập ra để điều hành sự vận chuyển và sự Tiến hóa của Càn Khôn Vũ Trụ. Thiên điều được chép vào một quyển sách gọi là Thiên Thơ (Thiên Thi, hay Thiên Thư).

    Câu 7: Dầu thế nào đi chăng nữa, phải tuân Thiên điều, không được vượt qua mức giới hạn qui định trong Thiên điều.

    Câu 8: Cũng quyền tự chủ dắt dìu Thiên lương.

    GIẢI NGHĨA

    Tự chủ: Tự mình làm chủ lấy mình.

    Quyền tự chủ: Cái quyền riêng của mình tự định đoạt lấy cuộc đời mình.

    Thiên lương: Thiên là Trời, lương là tốt đẹp. Thiên lương là cái tốt đẹp mà Trời ban cho mỗi người. Ðó là cái Lương tâm, nó vốn lành, nên nó luôn luôn hướng dẫn con người làm điều lương thiện đạo đức, và răn phạt con người khi làm điều gian ác hung bạo.

    Câu 8: Mỗi người, ai cũng có cái quyền tự chủ, định đoạt cuộc đời mình theo sự dìu dắt của Lương tâm.

    Lương tâm, hay nói vắn tắt là Tâm, là cái thể hiện của Chơn linh. Nếu Chơn linh không trau luyện cái Tâm, để cho nó lu lờ yếu đuối, thì Lục dục Thất tình dấy lên làm chủ thể xác, xúi biểu thể xác làm điều sái quấy, thì Chơn linh phải lãnh lấy tội tình và phải chịu đọa đày theo Luật Nhân quả.

    Câu 9: Dòng khổ hải hễ thường chìm đắm, Mùi đau thương đã thấm Chơn linh.

    GIẢI NGHĨA

    Dòng khổ hải: Dòng nước trong biển khổ, chỉ nỗi khổ của con người nơi cõi trần.

    Chìm đắm: Chìm sâu trong nước.

    Thấm: Ngấm vào, nhiễm vào.

    Chơn linh: Linh hồn.

    Câu 9-10: Khi con người bị chìm sâu trong biển khổ thì Chơn linh phải chịu nhiều nỗi đau thương.

    Ý nói: Khi con người mãi mãi luân chuyển chìm đắm trong cõi trần thì những nỗi đau thương sẽ thấm sâu vào Chơn linh, làm Chơn linh rất đau khổ.

    Câu 11: Dây oan xe chặt buộc mình.

    GIẢI NGHĨA

    Dây oan: Sợi dây oan nghiệt. Những việc làm không lương thiện của mình tạo thành những sợi dây oan nghiệt vô hình buộc chặt Chơn thần của mình vào vòng Luân hồi để chịu Luật Nhơn quả thể hiện. (Xem: Bảy dây oan nghiệt, Câu 3 Kinh Ðệ Nhứt Cửu).

    Xe chặt: Làm cho sợi dây xoắn chặt lại.

    Câu 11: Những oan nghiệt gây ra tạo thành những sợi dây oan nghiệt vô hình buộc chặt Chơn thần mình vào cõi trần.

    Câu 12: Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.

    GIẢI NGHĨA

    Nhớp nhơ: Dơ bẩn.

    Nhiễm: Thấm vào.

    Thân: Xác thân.

    Nhiễm thân: Thấm vào xác thân.

    Lục dục: 6 điều ham muốn gồm:

    - Sắc dục là ham muốn nhìn thấy sắc đẹp.
    - Thinh dục là ham muốn nghe âm thanh êm tai.
    - Hương dục là ham muốn ngữi mùi thơm tho.
    - Vị dục là ham muốn ăn món ngon vật lạ.
    - Xúc dục là ham muốn da thịt được mát mẻ dễ chịu.
    - Ý dục là ham muốn được thỏa mãn ý nghĩ.

    Thất tình: 7 thứ tình cảm gồm:

    - Hỷ là mừng rỡ.
    - Nộ là giận hờn.
    - Ái là thương yêu.
    - Ố là ghen ghét.
    - Ai là buồn phiền.
    - Lạc là vui vẻ.
    - Dục là ham muốn.

    Câu 12: Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân, là Lục dục và Thất tình xúi giục, xô đẩy con người vào vòng vật chất thấp hèn làm cho các thứ nhơ bẩn thấm vào xác thân.

    Câu 13: Chịu ô trược Chơn thần nặng trịu.

    GIẢI NGHĨA

    Ô trược: Ô là bẩn thỉu, dơ bẩn, Trược hay Trọc là dơ dáy, hôi hám. Ô trược là bẩn thỉu dơ dáy. Trái với Ô trược là Thanh khiết.

    Chơn thần: Xác thân thiêng liêng.

    Nặng trịu: Nặng như bị đè hẳn xuống.

    Nơi cõi phàm trần, tức là nơi quả Ðịa cầu 68 nầy, thanh khí thì ít, mà trược khí thì nhiều, lại nữa con người dùng thịt các loài cầm thú làm thức ăn nuôi xác thân, mà các thứ thịt ấy chứa rất nhiều chất trược, do đó:

    Câu 13: Chơn thần phải chịu ô trược nặng nề, nên khi Chơn thần xuất ra khỏi thể xác thì nó nặng trĩu, không thể bay bổng lên được.

    Câu 14: Mảnh hình hài biếng hiểu lương tâm.

    GIẢI NGHĨA

    Hình hài: Thể xác phàm.

    Biếng hiểu: Làm biếng hiểu biết, ý nói không chịu nghe lời dạy bảo.

    Lương tâm: Cái tấm lòng lành, đó là cái thể hiện của Chơn linh.

    "Thầy đã nói nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều cho một Chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sanh tồn. Thầy tưởng chẳng cần nói, các con cũng hiểu rõ rằng: Ðấng Chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng phép giao thông cùng cả chư Thần Thánh Tiên Phật và các Ðấng Trọn lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt điều lành việc dữ đều ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa Phán xét. Bởi vậy nên một mảy không qua, dữ lành đều có trả; lại nữa, các Chơn linh ấy, tánh Thánh nơi mình, đã chẳng phải giữ gìn các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con, thường nghe đời gọi lộn Lương tâm là đó." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 66).

    Câu 14: Thể xác làm lơ trước những điều dạy bảo của lương tâm.

    Lương tâm của mỗi người thường dạy bảo xác thân làm điều hay sự phải, nên khi xác thân làm điều sái quấy thì bị Lương tâm cắn rứt. Nhưng xác thân bị Lục dục Thất tình cám dỗ, xúi giục, làm điều hèn hạ, thoả mãn lòng ham muốn vật chất. Ðối với những người mà ý chí không mạnh mẽ thì

    Lục dục Thất tình mạnh hơn và lấn lướt Lương tâm, khiến xác thân làm lơ trước những điều dạy bảo của Lương tâm.

    Câu 15: Phong trần quen thú cung âm.

    GIẢI NGHĨA

    Phong trần: Phong là gió, trần là bụi. Phong trần là gió bụi, chỉ sự từng trải ở đời hay sự gian nan vất vả ở đời.

    Quen thú: Quen thuộc các thú vui.

    Cung âm: Cung bậc của âm nhạc, chỉ cảnh đờn ca xướng hát trong các ca lâu kỹ viện, chỗ ăn chơi trác táng.

    Câu 15: Ðã từng trải và quen thuộc các thú vui chơi đàn hát nơi chốn ca lâu kỹ viện.

    Câu 16: Cảnh thăng ngơ ngẩn lạc lầm Phong đô.

    GIẢI NGHĨA

    Cảnh thăng: Cảnh của những linh hồn siêu thăng tới ở, tức là cảnh Thiêng liêng Hằng sống.

    Ngơ ngẩn: Ở trạng thái mà tâm trí như ở đâu đâu.

    Lạc lầm: Lầm đường lạc lối.

    Phong đô: Tên của một vùng đất thời xưa bên Tàu mà người ta tin rằng đó là Âm phủ.

    Theo Phật giáo, Phong đô là cõi Ðịa ngục, để giam giữ và trừng trị những linh hồn tội lỗi. Khi bị giam vào đó rồi thì không thể nào trốn thoát được.

    Theo Ðạo Cao Ðài với Ðại Ân Xá kỳ ba, Ðức Chí Tôn ra lịnh đóng cửa Ðịa ngục, nên không còn cõi Ðịa ngục nữa. Các linh hồn tội lỗi được đưa đến cõi Âm quang, là nơi để tịnh tâm định trí, tự xét lại những lỗi lầm đã qua mà ăn năn sám hối, cầu xin Ðức Chí Tôn cứu vớt. Tại cõi Âm quang có Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa các Nam tội hồn, và Thất Nương Diêu Trì Cung giáo hóa các Nữ tội hồn.

    Câu 16: Trong kiếp sanh đã làm nhiều điều lầm lạc sai trái, nên khi chết đi, Chơn thần xuất ra, nhìn con đường đi về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà lòng ngẩn ngơ vì không thể lên đó được, bị đưa về cõi Âm Quang để tự xét mình và ăn năn sám hối tội tình.

    Câu 17: Khối trái chủ nhẫng lo vay trả. Mới gây nên nhân quả nợ đời.

    GIẢI NGHĨA

    Khối: Chỉ một đám người.

    Trái chủ: Trái là món nợ, chủ là người làm chủ. Trái chủ là người chủ nợ, người cho vay.

    Khối trái chủ: Chỉ chung đám chủ nợ và đám con nợ.

    Nhẫng: Những, nghĩa là: chỉ có, chỉ là.

    Nhân quả: (đã giải thích nơi câu 5).

    Nợ đời: Những món nợ ở đời tạo thành cái nghiệp mà mình phải đền trả.

    Câu 17-18: Ðám chủ nợ và đám con nợ, kẻ chỉ lo việc cho vay và đòi nợ, kẻ thì chỉ lo việc trả nợ, mới tạo nên việc nhân quả và cái nghiệp nơi cõi đời.

    Vì bị lẩn quẩn trong vòng nhân quả liên tục như thế, nên con người không thể thoát ra khỏi luân hồi. Muốn thoát khỏi luân hồi thì chỉ lo trả cho hết nợ mà không gây ra nợ mới, nghiệp mới hay gây ra nhân mới, đồng thời lo lập công bồi đức, tùng theo Chơn pháp tu hành.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh TÐ-TÐ 1936, Kinh Lễ 1952: Mới gầy nên ...
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975: Mới gây nên ...
    Hai từ ngữ: Gầy nênGây nên, đồng nghĩa.

    Câu 19: Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi.

    GIẢI NGHĨA

    Rảnh: Không vướng bận việc gì hết.

    Thảnh thơi: Nhàn hạ, thong thả.

    Câu 19: Thân mình đâu có được rảnh rang (vì còn ở trong vòng vay trả) để đặng thong dong nhàn hạ.

    Câu 20: Thiên cung lỡ lối chơi vơi cõi trần.

    GIẢI NGHĨA

    Thiên cung: Chỉ cõi Trời, tức cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Lỡ lối: Lỡ đường; đi được một phần đường, chưa tới nơi tới chốn thì phải dừng lại.

    Chơi vơi: Trơ trọi giữa khoảng rộng, không biết bám víu vào đâu.

    Câu 20: Lỡ đường về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, đành chịu trơ trọi bơ vơ nơi cõi trần.

    Câu 21-22: May đặng gặp hồng ân chan rưới, Giải trái oan sạch tội tiền khiên.

    GIẢI NGHĨA

    Hồng ân: Hồng là to lớn. Hồng ân là ơn huệ to lớn của Ðức Chí Tôn ban cho.

    Chan rưới: Ban bố đầy dẫy.

    Giải: Cởi bỏ ra.

    Trái: Món nợ.

    Oan: Thù giận.

    Giải trái oan: Cởi bỏ hết những món nợ thù giận đã gây ra trong kiếp trước.

    Sạch tội: Hết tội.

    Tiền khiên: Tiền là trước, Khiên là tội lỗi. Tiền khiên là tội lỗi đã gây ra trong các kiếp trước .

    Câu 21-22: May mắn gặp được ơn huệ to lớn của Ðức Chí Tôn ban cho đầy dẫy, để cởi bỏ hết những mối nợ oan nghiệt và rửa sạch tiền khiên.

  • Kinh Tắm Thánh

    Kinh Tắm Thánh
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Những vạn vật Âm Dương tạo hóa,
    Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh.
    Vạn vật đều do 2 Khí Âm quang và Dương quang phối hợp tạo thành; dầu cho là thảo mộc có bông có trái, cũng do 2 Khí Âm Dương biến hóa sanh ra.
    3. Con người đứng phẩm tối linh. Con người đứng vào bực rất thiêng liêng hơn hết trong chúng sanh.
    4. Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi. Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi, là trong mình đứa trẻ vừa có Phàm tánh, vừa có Phật tánh.
    5.
    6.
    Ðại Từ Phụ từ bi tạo hóa,
    Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn.
    Ðấng Ðại Từ Phụ mở lòng từ bi tạo hóa ra con người, nắn đúc ra thân thể có cấu tạo giống như Trời Ðất.
    7. Vẹn toàn đủ xác đủ hồn. Con người có đầy đủ Linh hồn và Thể xác.
    8. Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh. Xây dựng cơ quan Chuyển thế để bảo tồn chúng sanh.
    9. Xin gìn giữ Thánh hình thanh bạch. Xin Ðức Chí Tôn gìn giữ mảnh hình hài nầy cho được hoàn toàn trong sạch.
    10. Xin xá ân rửa sạch tiền khiên. Xin Ðức Chí Tôn ban ơn tha tội cho nó và rửa sạch những tội lỗi trong các kiếp sống trước của nó.
    11. Căn xưa ví dữ cũng hiền. Nếu như kiếp trước nó là người hung dữ, xin Ðức Chí Tôn cho nó trong kiếp nầy là người hiền lành.
    12. Dầu ra cửa tội đủ quyền cao siêu. Mặc dầu Chơn linh đứa bé mới ra khỏi nơi tội lỗi, nay chuyển kiếp làm người (do Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn) thì cũng xin Ðức Chí Tôn ban cho nó đầy đủ quyền tự chủ để lập vị cao siêu.
    13. Công nuôi dưỡng nâng niu khổ nhọc. Công lao nuôi dưỡng và nâng niu chăm sóc đứa bé thật là khổ cực và nhọc nhằn.
    14. Phép thương yêu cũng học nơi Thầy. Phải học nơi Ðức Chí Tôn về Luật thương yêu, bởi vì lòng thương yêu của Ðức Chí Tôn thì vô cùng vô tận.
    15.
    16.
    Sanh nơi đây, ở nơi đây,
    Trăm năm là tuổi đủ đầy mạng căn.
    Ðược sanh ra ở nơi đây, sống ở nơi đây, hạn định của kiếp sống thường là 100 tuổi, với đầy đủ mạng sống và số phận.
    17. Chốn hồng trần quen lằn gió bụi. Nơi cõi trần, con người phải chịu đựng cho quen nhiều nỗi gian nan vất vả.
    18. Cảnh phù ba may rủi cũng duyên. Cảnh đời luôn luôn thay đổi mau chóng, hết may tới rủi, hết rủi tới may, cũng do nơi những mối dây ràng buộc từ trước (không ra ngoài khuôn Luật Nhân quả).
    19. Ðã gan dốc kiếm diệu huyền. Ðã có can đảm quyết chí tu hành để đạt được trí huệ, thì phải dùng cái trí huệ nầy như một cây kiếm huyền diệu để diệt trừ vô minh và phiền não.
    20. Sanh sanh là phận, hiền hiền là công. Sống và sanh sản thêm ra là bổn phận, dùng sự hiền lành và tài giỏi để lập công với đời.
    21.
    22.
    Ðừng thối chí ngã lòng trở gót,
    Ðể cho đời chua xót tình thương.
    Ðừng thấy cõi trần có nhiều khổ đau phiền não mà thối chí ngã lòng lui bước trở lại cõi Thiêng Liêng (ý nói chết), để cho cha mẹ và những người thân phải đau đớn xót xa vì thương tiếc.
    23. Trăm năm thọ khảo vĩnh trường. Ðời người sống được trăm tuổi là trường thọ.
    24. Thuận căn thuận mạng, đôi đường cao thăng. Phải thuận theo số phận của mình để trả dứt nghiệp (mà không tạo ra nghiệp mới), hoặc phải thuận theo đức háo sanh của Ðức Chí Tôn, cả hai đường đều giúp cho Chơn linh được cao thăng phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.

    (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

    Nguồn Gốc:

    Kinh Tắm Thánh do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, đồng nhi tụng bài kinh nầy trước khi vị Chức sắc hành pháp Tắm Thánh cho các trẻ em trong Ðạo.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo cho biết, Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn là một vị Thánh của Bạch Vân Ðộng nơi cõi thiêng liêng. Ngài có chiết chơn linh giáng trần một kiếp tại Việt Nam là Thi hào Nguyễn Du, sau đó Ngài chiết chơn linh giáng sanh bên Pháp là Văn hào Victor Hugo.

    Trong thời Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ngài thọ lịnh Ðức Chí Tôn cầm quyền Chưởng Ðạo Hội Thánh Ngoại Giáo của Ðạo Cao Ðài. Ngài thường giáng cơ giáo hóa các Chức sắc của Hội Thánh Ngoại Giáo.

    Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn có giáng cơ ban cho 6 bài Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, kể ra:

    . Kinh Tắm Thánh.
    . Kinh Tẫn Liệm.
    . Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối.
    . Kinh Ðưa Linh Cửu.
    . Kinh Khi Ðã Chết Rồi.
    . Kinh Hôn Phối.

    Tắm Thánh: Xối nước Thánh lên đầu đứa bé. Nước Thánh đó là Ma Ha Thủy. Cách luyện Ma Ha Thủy đã giải rõ nơi phần cuối bài Kinh Giải Oan.

    Theo Tân Luật của Ðạo Cao Ðài, phần Thế Luật, điều thứ 22: "Ðứa con nít khi được 1 tháng sắp lên, phải đem đến Thánh Thất sở tại mà xin làm Lễ Tắm Thánh và ghi vào Bộ Sanh của bổn đạo."

    Mục đích của Phép Tắm Thánh là:

    Trình với Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu, cùng các Ðấng Thiêng liêng để công nhận đứa bé nầy là con của nhà Ðạo Cao Ðài, tức là con cái của Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu trong Ðạo Cao Ðài.

    Tẩy trược Chơn thần đứa bé để nó được thông minh sáng láng, lớn lên học hành mau hiểu biết.

    Câu 1-2: Những vạn vật Âm Dương tạo hóa, Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Vạn vật: Tất cả các loài vật hiện hữu, từ Vật chất, Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm đến Nhơn loại.

    Âm Dương: Hai chất khí Dương quang và Âm quang do Thái Cực biến hóa phân ra. Ðức Chí Tôn làm chủ Dương quang, Ðức Phật Mẫu làm chủ Âm quang. Ðức Phật Mẫu thâu lằn Sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem Âm quang phối hợp với Dương quang để tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật.

    Tạo hóa: Tạo là làm ra, hoá là biến đổi. Tạo hóa là biến đổi để làm ra cái mới.

    Biến sanh: Biến hóa sanh ra.

    Hoa quả: Hoa là cái bông, Quả là cái trái. Các loài thảo mộc thường có bông, trong bông có nhụy đực và nhụy cái. Nhụy đực rơi vào nhụy cái để kết thành trái. Trong trái có hột, lấy hột gieo xuống đất thì hột nẩy mầm sanh ra một cây mới. Và cứ thế, loài thảo mộc sanh sản càng ngày càng nhiều.

    Câu 1-2: Vạn vật đều do 2 Khí Âm quang và Dương quang phối hợp tạo thành; dầu cho là thảo mộc có bông có trái, cũng do 2 Khí Âm Dương biến hóa sanh ra.

    Vật chất thì do các nguyên tử có Dương điện và có Âm điện kết hợp tạo thành; Thảo mộc thì có nhụy đực nhụy cái, Thú cầm thì có con trống con mái, Nhơn loại thì có Nam Nữ, hai nguyên lý Âm Dương ấy kết hợp mới sanh hoá được.

    Câu 3: Con người đứng phẩm tối linh.

    GIẢI NGHĨA

    Phẩm: Thứ bực cao thấp.

    Tối linh: Tối là rất, Linh là thiêng liêng. Tối linh là rất thiêng liêng.

    Câu 3: Con người đứng vào bực rất thiêng liêng hơn hết trong chúng sanh.

    Tại sao con người đứng phẩm tối linh?

    Bởi vì theo Luật Tiến hóa, loài Kim thạch tiến hóa lên thành Thảo mộc, Thảo mộc tiến hóa lên Thú cầm, Thú cầm tiến hóa lên Nhơn loại. Nhơn loại là bực cao hơn hết trong chúng sanh, nên được gọi là Thượng đẳng chúng sanh.

    Con người lại có đủ Tam hồn. Từ Kim thạch vô tri giác, tiến hóa lên Thảo mộc có sự sống rõ rệt, nên Thảo mộc có được một phần hồn, gọi là Sanh hồn. Thảo mộc tiến hóa lên Thú cầm, nó có thêm một phần hồn nữa gọi là Giác hồn, để có sự cảm giác và hiểu biết. Thú cầm tiến hóa lên Nhơn loại thì có thêm một phần hồn nữa là Linh hồn.

    Vì vậy, con người linh hơn vạn vật nhờ có đủ Tam hồn: Sanh hồn, Giác hồn, Linh hồn. Nhờ đó, con người có được sự sống, sự cảm giác hiểu biết, sự suy nghĩ và có tánh linh hơn vạn vật. Nhờ có Linh hồn nên con người có thể tu thành Thần Thánh Tiên Phật được.

    Câu 4: Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi.

    GIẢI NGHĨA

    Anh nhi: Anh là đứa trẻ mới sanh, nhi là trẻ con. Anh nhi là chỉ đứa bé nhỏ tuổi.

    Nửa người nửa Phật: Ý nói con người vừa có Phàm tánh, vừa có Phật tánh, hay nói một cách mạnh mẽ hơn là: Con người vừa có Thú tánh, vừa có Phật tánh, tức là vừa có tánh ác, vừa có tánh thiện.

    "Chúng ta ngó thấy trong mình chúng ta có Thần và Thú. Vì cớ cho nên Triết lý Thất tình định duy chủ, muốn làm Phật thì làm, muốn làm Thú thì làm, bởi nó định theo tình dục của nó. Bây giờ, trong thân thể của chúng ta, trong nguyên bổn của chúng ta vẫn thường chiến đấu: Phật chiến đấu với Thú, Thú chiến đấu với Phật. Hai hình trạng của Ðời và của Ðạo, Ðạo xu hướng theo Phật, Ðời xu hướng theo Thú, hai tương quan phản khắc nhau. Vì cớ cho nên, Thuyết Duy Tâm và Duy Vật hay tương đối với nhau." (Thuyết đạo về Bí Pháp của Ðức Phạm Hộ Pháp).

    Như thế, con người vừa có tánh ác của Thú, vừa có tánh thiện của Phật. Có tánh ác của Thú vì con người là do loài Thú tiến hóa mà thành; có tánh Phật vì con người được Ðức Chí Tôn ban cho một Ðiểm Linh quang làm Linh hồn. Vì vậy mà con người có thể tiến hóa đi lên, mà cũng có thể thoái hóa đi xuống. Nếu con người chịu khổ hạnh tu hành, chắc chắn sẽ tiến hóa thành Tiên, Phật. Trái lại, nếu không chịu tu hành, con người lại buông xuôi theo Vật dục, làm nhiều điều gian ác thì sẽ bị thoái hóa xuống Cầm Thú. Còn nếu con người cứ sống tự nhiên, không thiện lắm mà cũng không ác lắm, con người vẫn cứ mãi mãi là con người sống trong vòng luân hồi sanh tử, thì rất uổng cho cái điểm Linh quang mà Ðức Chí Tôn đã ban cho, biết chừng nào trở thành Tiên Phật, hưởng an vui đời đời nơi Cực Lạc Niết Bàn.

    Câu 4: Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi, là trong mình đứa trẻ vừa có Phàm tánh, vừa có Phật tánh.

    Giữa người và Phật chỉ cách nhau có một tấm màn mỏng là Vô minh. Nếu còn Vô minh, tức là còn mê lầm thì con người mãi mãi là con người nơi cõi thế gian, nếu qua khỏi Vô minh tức là Giác ngộ thì con người trở thành Tiên, Phật.

    Câu 5-6: Ðại Từ Phụ từ bi tạo hóa, Tượng mảnh thân giống cả Càn Khôn.

    GIẢI NGHĨA

    Ðại Từ Phụ: Ðấng Cha lành thiêng liêng của toàn cả chúng sanh, đó là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

    Từ bi: Lòng thương yêu bao la, thương khắp chúng sanh và luôn luôn muốn cứu giúp chúng sanh thoát khổ.

    Tượng: Nắn đúc nên hình dáng.

    Mảnh thân: Tấm thân.

    Càn Khôn: Trời Ðất, Càn Khôn Vũ Trụ.

    Câu 5-6: Ðấng Ðại Từ Phụ mở lòng từ bi tạo hóa ra con người, nắn đúc ra thân thể có cấu tạo giống như Trời Ðất.

    Hễ Trời Ðất có gì thì con người có nấy, nên con người được gọi là Tiểu Thiên Ðịa, Trời Ðất là Ðại Thiên Ðịa.

    Trời có Tam Bửu là Nhựt, Nguyệt, Tinh; Ðất có Tam Bửu là Thủy, Hỏa, Phong; thì con người có Tam Bửu là: Tinh, Khí, Thần.

    Trời có Ngũ Khí; Ðất có Ngũ Hành: Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ; người có Ngũ Tạng: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận.

    Trời có Tứ Tượng; Ðất có Tứ phương; người có Tứ Chi: 2 tay, 2 chân.

    Trời có Thập Thiên Can; Ðất có Thập nhị Ðịa Chi; người thì nắm đủ trong 2 bàn tay.

    Câu 7: Vẹn toàn đủ xác đủ hồn.

    GIẢI NGHĨA

    Vẹn toàn: Ðầy đủ hoàn toàn.

    Xác: Thể xác.

    Hồn: Linh hồn.

    Câu 7: Con người có đầy đủ Linh hồn và Thể xác.

    Thể xác ở đây, nếu chúng ta hiểu rộng ra thì có 2 trường hợp: Nơi cõi trần thì thể xác phàm; nơi cõi thiêng liêng thì xác thân thiêng liêng.

    Khi con người còn ở trên cõi thiêng liêng thì con người có xác thân thiêng liêng, còn gọi là Chơn thần, Nhị xác thân, bao bọc lấy Chơn linh.

    Khi con người đầu thai xuống cõi phàm trần thì con người mang thêm xác thân phàm trần bằng xương bằng thịt, gọi là Ðệ Nhứt xác thân. Còn xác thân thiêng liêng lúc đó ẩn trong xác thân phàm, làm khuôn viên cho xác thân phàm.

    Khi xác thân phàm chết, xác thân thiêng liêng xuất ra, lấy y hình ảnh của xác thân phàm như khuôn in rập. Xác thân thiêng liêng bao bọc linh hồn bay trở về cõi thiêng liêng.

    Câu 8: Xây cơ chuyển thế bảo tồn vạn linh.

    GIẢI NGHĨA

    Cơ: Cái máy, cơ quan.

    Xây cơ: Xây dựng cơ quan.

    Chuyển thế: Chuyển là dời đổi, Thế là đời. Chuyển thế là làm cho đời thay đổi để tiến hóa cho tốt đẹp hơn. Sự đổi thay nầy không ngoài khuôn luật tuần hoàn.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về Cơ quan Chuyển thế của Ðức Chí Tôn như sau:

    "Bần đạo nhớ buổi Chí Tôn mới đến tỏ danh hiệu Ngài, Ngài hứa với các môn đệ của Ngài buổi đầu tiên về Cơ quan Chuyển thế, làm phân vân biết bao nhà trí thức, tìm hiểu 2 chữ Chuyển thế là gì?

    Theo Triết Lý Học, định nghĩa 2 chữ Chuyển thế là thay đổi thời đại hiển nhiên ra thời đại khác, hoặc không phù hợp, hoặc quá khuôn khổ nề nếp, nên quyết đoán thay đổi lập trường thiêng liêng vì thời đại nầy đã định. Chuyển nghĩa là sửa cũ ra mới.

    Lấy nghĩa lý đã định hẳn ra, tức nhiên chúng ta nhận thấy các khuôn luật đạo đức từ trước đến giờ để lại đều bị biếm trách cả, bởi vì đời quá hung tàn bạo ngược, vô nhơn luân, tinh thần đạo đức không qui định tâm lý loài người không tương quan cùng nhau, mất cả luật đồng sanh làm căn bản của loài người, luật đồng sanh gần như bị hủy bỏ....

    Bần đạo tìm hiểu định nghĩa 2 chữ Chuyển thế, là thay đổi thời thế. Ðem kinh luật ra quan sát thấy mỗi thế kỷ, mỗi nguơn, từ trước đến giờ, nhiều giai đoạn giống nhau một cách lạ lùng, những tấn tuồng nầy giống tấn tuồng trước, không ngoài khuôn viên ấy...."

    Bảo tồn: Gìn giữ cho còn.

    Vạn linh: Toàn thể các Chơn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ, gồm đủ Bát hồn. Vạn linh đầu kiếp xuống trần làm chúng sanh. Do đó, trong nhiều trường hợp, chúng ta hiểu Vạn linh là chúng sanh.

    Câu 8: Xây cơ chuyển thế bảo tồn Vạn linh, nghĩa là: Xây dựng cơ quan Chuyển thế để bảo tồn chúng sanh.

    Cơ quan Chuyển thế mà Ðức Chí Tôn xây dựng là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là Ðạo Cao Ðài. Ðức Chí Tôn sẽ dùng tinh hoa của Giáo lý Nho giáo làm nồng cốt cho công cuộc Chuyển thế.

    Câu 9: Xin gìn giữ Thánh hình thanh bạch.

    GIẢI NGHĨA

    Thánh hình: Thánh là thiêng liêng, Hình là hình thể. Thánh hình là hình thể thiêng liêng của con người. Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu tạo ra hình thể của con người rất thiêng liêng huyền diệu, bởi vì hình thể nầy "giống cả Càn Khôn", nên con người mới được gọi là Tiểu Thiên Ðịa.

    Thanh bạch: Hoàn toàn trong sạch.

    Câu 9: Xin Ðức Chí Tôn gìn giữ mảnh hình hài nầy cho được hoàn toàn trong sạch.

    Câu 10: Xin xá ân rửa sạch tiền khiên.

    GIẢI NGHĨA

    Xá ân: Ân xá, tha cho kẻ có tội để làm ơn.

    Tiền khiên: Tiền là trước , Khiên là tội lỗi. Tiền khiên là tội lỗi đã gây ra trong các kiếp sống trước .

    Câu 10: Xin Ðức Chí Tôn ban ơn tha tội cho nó và rửa sạch những tội lỗi trong các kiếp sống trước của nó.

    (Nó: Ý nói đứa bé được đem đi Tắm Thánh).

    Câu 11: Căn xưa ví dữ cũng hiền.

    GIẢI NGHĨA

    Căn xưa: Cái gốc rễ của thuở xưa, tức là nơi kiếp trước .

    Ví: Nếu như.

    Dữ: Hung dữ.

    Hiền: Lành.

    Căn xưa ví dữ: Nếu như kiếp trước là người hung dữ.

    Câu 11: Nếu như kiếp trước nó là người hung dữ, xin Ðức Chí Tôn cho nó trong kiếp nầy là người hiền lành.

    Câu 12: Dầu ra cửa tội đủ quyền cao siêu.

    GIẢI NGHĨA

    Cửa tội: Nơi tội lỗi, ý nói cửa Ðịa ngục hay cửa Âm phủ.

    Dầu ra cửa tội: Mặc dầu mới ra khỏi nơi tội lỗi.

    Ðủ quyền cao siêu: Có đầy đủ quyền tự chủ để lập ngôi vị của mình cho được cao siêu.

    Câu 12: Mặc dầu Chơn linh đứa bé mới ra khỏi nơi tội lỗi, nay chuyển kiếp làm người (do Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn) thì cũng xin Ðức Chí Tôn ban cho nó đầy đủ quyền tự chủ để lập vị cao siêu.

    Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 85: Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ: "Bần đạo chẳng kể là Nguyên nhân, Hóa nhân hay là Quỉ nhân, ví biết lập công thì thành Ðạo. Bần đạo để cho mỗi người tự do định phận, lại tùy thế khó khăn mà gầy thành công quả,"

    Qua bài Thánh ngôn trên, chúng ta thấy rằng: Dầu cho các Chơn linh Quỉ vị (tức là ở nơi cửa tội), nay được Ðại Ân Xá của Ðức Chí Tôn, cho chuyển kiếp đầu thai làm người, gọi là Quỉ nhân, nếu biết tu hành, lập công bồi đức thì cũng đắc đạo như các Nguyên nhân hay Hóa nhân.

    Câu 13: Công nuôi dưỡng nâng niu khổ nhọc.

    GIẢI NGHĨA

    Công nuôi dưỡng: Công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi dưỡng, dạy dỗ đứa bé từ lúc nhỏ cho đến lúc lớn khôn.

    Nâng niu: Yêu mến chăm sóc giữ gìn cẩn thận.

    Khổ nhọc: Khổ cực và nhọc nhằn.

    Câu 13: Công lao nuôi dưỡng và nâng niu chăm sóc đứa bé thật là khổ cực và nhọc nhằn.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh Lễ năm 1952: ....... khó nhọc.
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975: ...... khổ nhọc.
    Khó nhọc: Khó khăn vất vả.

    Câu 14: Phép thương yêu cũng học nơi Thầy.

    GIẢI NGHĨA

    Phép: Pháp luật.

    Thương yêu: Bản chất của Ðức Chí Tôn. Kỳ Khai Ðạo nầy, Ðức Chí Tôn giao ước với Nhơn loại có 4 chữ: Bác ái - Công bình, tức là: Thương yêu và Công chánh, nên mới nói rằng: Luật Thương yêu và Quyền Công chánh. Phép thương yêu: Luật thương yêu.

    Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng: "Thầy chỉ một lòng mơ ước cho các con biết thương yêu nhau trong Thánh đức của Thầy. Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam thập lục Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh. Kẻ nào ghét sự thương yêu thì chẳng hề qua khỏi cửa Luân hồi."

    "Sự thương yêu là giềng bảo sanh trong CKTG. Có thương yêu, nhơn loại mới hòa bình, Càn Khôn mới an tịnh. Ðặng an tịnh mới không thù nghịch nhau, mới giữ bền cơ Sanh hóa." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 43-69)

    Thầy: Ðức Chí Tôn tự xưng mình là Thầy để dạy Ðạo cho các Tín đồ, và gọi các Tín đồ là môn đệ.

    Câu 14: Phải học nơi Ðức Chí Tôn về Luật thương yêu, bởi vì lòng thương yêu của Ðức Chí Tôn thì vô cùng vô tận.

    Câu 15: Sanh nơi đây, ở nơi đây, Trăm năm là tuổi đủ đầy mạng căn.

    GIẢI NGHĨA

    Trăm năm là tuổi: Do câu thành ngữ chữ Hán: Nhân sinh bách tuế vi kỳ, nghĩa là: Người ta sống một trăm năm là kỳ hạn. Người mà sống trên 100 tuổi thì rất hiếm.

    Mạng căn: Mạng là cái mạng sống của con người, căn là gốc rễ. Mạng sống có được là do Ðức Chí Tôn ban cho Chơn linh ngự trong xác thân; còn cái gốc rễ của con người là do nơi các việc làm trong tiền kiếp, tạo thành cái nghiệp, quyết định số phận kiếp sống hiện tại. Do đó mạng căn là cái mạng sống và số phận của nó.

    Câu 15-16: Ðây là 2 câu kinh căn dặn và nhắc nhở tâm thức của đứa bé đang thọ phép Tắm Thánh: Ðược sanh ra ở nơi đây, sống ở nơi đây, hạn định của kiếp sống thường là 100 tuổi, với đầy đủ mạng sống và số phận.

    Câu 17: Chốn hồng trần quen lằn gió bụi.

    GIẢI NGHĨA

    Hồng trần: Bụi đỏ, chỉ cõi trần. Hồng là đỏ, trần là bụi.

    Gió bụi: Phong trần, chỉ sự gian nan vất vả ở đời.

    Câu 17: Nơi cõi trần, con người phải chịu đựng cho quen nhiều nỗi gian nan vất vả.

    Câu 18: Cảnh phù ba may rủi cũng duyên.

    GIẢI NGHĨA

    Phù ba: Phù là nổi, ba là làn sóng. Phù ba là làn sóng nổi, tức là làn sóng nổi lên rồi liền hạ xuống.

    Cảnh phù ba: Cảnh đời luôn luôn thay đổi mau chóng như làn sóng.

    Duyên: Cái mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước.

    Câu 18: Cảnh đời luôn luôn thay đổi mau chóng, hết may tới rủi, hết rủi tới may, cũng do nơi những mối dây ràng buộc từ trước (không ra ngoài khuôn Luật Nhân quả).

    Câu 19: Ðã gan dốc kiếm diệu huyền.

    GIẢI NGHĨA

    Gan: Can đảm, dám đương đầu với khó khăn nguy hiểm.

    Dốc kiếm: Tuốt kiếm ra khỏi vỏ sẵn sàng chiến đấu.

    Kiếm diệu huyền: Cây gươm huyền diệu, ý nói cây gươm trí huệ. Người tu cần phải dùng cái trí huệ của mình để trừ diệt vô minh và phiền não. Nói tỷ dụ, cái trí huệ như cây kiếm huyền diệu, phiền não và vô minh như những tên giặc cướp, phải dùng cây kiếm trí huệ mới diệt trừ được chúng.

    Câu 19: Ðã có can đảm quyết chí tu hành để đạt được trí huệ, thì phải dùng cái trí huệ nầy như một cây kiếm huyền diệu để diệt trừ vô minh và phiền não.

    Hai câu 18 và 19 cũng để nói với đứa bé đang chịu Phép Tắm Thánh rằng, khi lớn lên sẽ phải chịu nhiều nỗi vất vả nơi cõi trần, nhưng phải rán lo tu hành cho đạt được trí huệ thì mới dứt được phiền não.

    Câu 20: Sanh sanh là phận, hiền hiền là công.

    GIẢI NGHĨA

    Sanh sanh: Sống và sinh sản thêm ra.

    Phận: Bổn phận.

    Hiền hiền: Lành và tài giỏi.

    Công: Công lao.

    Câu 20: Sống và sanh sản thêm ra là bổn phận, dùng sự hiền lành và tài giỏi để lập công với đời.

    Câu 21-22: Ðừng thối chí ngã lòng trở gót, Ðể cho đời chua xót tình thương.

    GIẢI NGHĨA

    Thối chí: Nãn chí, không còn muốn đeo đuổi việc đang làm vì gặp khó khăn trở ngại.

    Ngã lòng: Không còn giữ được quyết tâm trước thử thách khó khăn.

    Trở gót: Lui bước.

    Chua xót: Ðau đớn xót xa một cách thấm thía.

    Câu 21-22: Hai câu kinh nầy cũng để căn dặn đứa bé Tắm Thánh: Ðừng thấy cõi trần có nhiều khổ đau phiền não mà thối chí ngã lòng lui bước trở lại cõi Thiêng Liêng (ý nói chết), để cho cha mẹ và những người thân phải đau đớn xót xa vì thương tiếc.

    Câu 23: Trăm năm thọ khảo vĩnh trường.

    GIẢI NGHĨA

    Thọ khảo: Thọ là sống lâu, khảo là già cả sống lâu.

    Vĩnh trường: Vĩnh là lâu dài, mãi mãi; trường là lâu dài. Vĩnh trường là lâu dài mãi mãi.

    Câu 23: Ðây là câu cầu chúc đứa bé sống lâu: Ðời người sống được trăm tuổi là trường thọ.

    Câu 24: Thuận căn thuận mạng, đôi đường cao thăng.

    GIẢI NGHĨA

    Thuận căn: Căn là cái gốc rễ, tức là những việc làm trong kiếp trước tạo thành cái nghiệp quyết định số phận của mình. Thuận căn là thuận theo số phận của mình để trả cho dứt nghiệp.

    Thuận mạng: Thuận theo cái mạng sống của mình do Ðức Chí Tôn ban cho, tức là thuận theo đức háo sanh của Ðức Chí Tôn. Cao thăng: Phẩm vị được đưa lên cao hơn.

    Câu 24: Phải thuận theo số phận của mình để trả dứt nghiệp (mà không tạo ra nghiệp mới), hoặc phải thuận theo đức háo sanh của Ðức Chí Tôn, cả hai đường đều giúp cho Chơn linh được cao thăng phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.

  • Kinh Tận độ Vong linh: Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối

    Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối
    (Giọng Nam ai)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Rấp nhập cảnh Thiêng liêng Hằng sống. Sắp sửa bước vào cõi Thiêng liêng Hằng sống.
    2. Chốn quê xưa giải mộng trần gian. Cái chết nơi cõi trần là để linh hồn trở về nơi quê cũ.
    3. Dìu đường thoát tục nắm phan. Khi linh hồn thoát ra khỏi cõi trần thì phải đi theo cây phướn dẫn đường.
    4. Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn. Nhìn lên Bạch Ngọc Kinh đặng định tỉnh tinh thần và cởi bỏ hết các việc làm trong lúc còn sống nơi cõi trần.
    5.
    6.
    Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ,
    Phép Lục Nương gìn giữ chơn hồn.
    Ðức Phật Mẫu nơi Diêu Trì Cung sai Tiên Nữ Lục Nương cầm Phướn Truy hồn đến gìn giữ Chơn thần người mới chết.
    7.
    8.
    Tây phương Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn,
    Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.
    Nơi cõi Cực Lạc Thế Giới ở về hướng Tây, Ðức Phật Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn cầm cây Phướn linh là cây Phướn Tiếp Dẫn, đi khai mở con đường đi đến Lôi Âm Tự.
    9.
    10.
    (Tên họ kẻ qui vị) thành tâm cầu nguyện,
    Nguyện Chí Tôn linh hiển độ sanh.
    Kêu gọi Chơn hồn người chết hãy thành tâm cầu nguyện Ðức Chí Tôn, xin Ðức Chí Tôn linh hiển cứu giúp thoát qua biển khổ để được đi lên sống nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
    11.
    12.
    Ăn năn sám hối tội tình,
    Xét câu Minh Thệ, gởi mình cõi thăng.
    Hãy nhớ rõ Lời Minh Thệ khi nhập môn vào Ðạo để tự xét mình mà ăn năn sám hối tội tình, cầu khẩn Ðức Chí Tôn tha thứ và cứu rỗi để được siêu thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
    13. Dầu nghiệt chướng số căn quả báo. Dù cho số phận mình bị nghiệt chướng nên gặp phải hoạn nạn tai ương báo đáp lại.
    14. Ðừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn. Ðừng quá sợ sệt, hãy cúng tế và cầu khẩn Chí Tôn.
    15.
    16.
    Cửa Ðịa ngục khá lánh chơn.
    Ngọc Hư Cực Lạc đon đường ruổi dong.
    Hãy bước đi lánh xa cõi Ðịa ngục, hỏi thăm đường để đi thẳng một mạch tới Ngọc Hư Cung và Cực Lạc Thế Giới.
    17.
    18.
    Dầu trọn kiếp sống không nên đạo,
    Dầu oan gia tội báo buộc ràng.
    Dầu cho trọn kiếp sống mà không làm được việc gì đạo đức, dầu cho kẻ oan gia đến bắt buộc phải đền trả cái tội lỗi đã gây ra lúc trước.
    19. Chí Tôn xá tội giải oan. Cầu xin Ðức Chí Tôn xá tội và giải oan.
    20. Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ vong. Các Ðấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, cứu giúp các tai nạn và độ rỗi linh hồn người chết.
    21.
    22.
    Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Ðẩu,
    Kìa im đìm phúc hậu Nam Tào.
    Kìa là ngôi Bắc đẩu chiếu ra rực rỡ ánh sáng màu hồng; kìa là ngôi Nam Tào lặng yên và phúc hậu.
    23.
    24.
    Cảnh thăng trổi gót cho mau,
    Xa vòng tục lự đặng chầu Chí Linh.
    Hãy cất bước đi mau lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, lánh xa khỏi vòng tục lự, đặng lên chầu Ðức Chí Tôn.

    (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, để tụng lúc một vị Tín đồ đang hấp hối hay vừa mới dứt hơi.

    Hấp hối: Sắp chết. Dứt hơi: Hơi thở chấm dứt, chết.

    Câu 1: Rấp nhập cảnh Thiêng liêng Hằng sống.

    GIẢI NGHĨA

    Rấp: Ðịnh, toan, sắp sửa.

    Nhập: Ði vào.

    Cảnh Thiêng liêng Hằng sống: Cõi của những người đắc đạo. Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống: là con đường dành cho các chơn hồn, khi thoát xác, từ bỏ cõi trần, trở về với Ðức Chí Tôn nơi cõi Thiêng liêng để được định vị thăng hay đọa.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống:

    "Con đường về với Ðức Chí Tôn không phải dễ, mà cũng không phải tới liền. Muốn về với Ðức Chí Tôn, ta phải qua nhiều Cung, nhiều Ðiện (Y theo 9 bài Kinh Tuần Cửu, Tiểu Tường và Ðại Tường). Mỗi Cung, chúng ta gặp một sự lạ, mỗi Ðiện chúng ta gặp một huyền vi khác nhau. Phải đi từ Cung nầy đến Ðiện nọ, nên gọi là Dục tấn trên Con đường Thiêng liêng Hắng Sống. Về được với Ðức Chí Tôn không còn hạnh phúc nào bằng."

    Câu 1: Sắp sửa bước vào cõi Thiêng liêng Hằng sống.

    Câu 2: Chốn quê xưa giải mộng trần gian.

    GIẢI NGHĨA

    Chốn quê xưa: Nơi mình đã được sanh ra và sống ở đó nhiều năm.

    Theo Giáo lý của Ðạo Cao Ðài, các Nguyên nhân là những người được Ðức Chí Tôn sanh ra từ lúc Khai Thiên nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Sau đó, Ðức Phật Mẫu cho các Nguyên nhân đầu thai xuống cõi trần, để khai hóa cho các Hóa nhân và cũng để kinh nghiệm học hỏi tiến hóa. Khi xong nhiệm vụ thì phải trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống là nơi quê cũ.

    Như vậy, cõi trần là cõi tạm, nơi mà Ðức Phật Mẫu sai xuống công tác một thời gian, khi xong việc thì phải trở về. Cái sống nơi cõi trần là sống tạm, cái sống nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mới là cái sống vĩnh cửu.

    Giải: Cởi bỏ ra.

    Mộng trần gian: Giấc mộng trần. Cuộc sống của con người nơi cõi trần và các hoạt động ở nơi đó được các Ðấng Thiêng liêng xem như là một giấc mộng, bởi vì nó ngắn ngủi và không bền, tan mất theo thời gian. Do đó, các Ðấng thường dùng các thành ngữ: Giấc Huỳnh lương, Giấc Nam Kha, Giấc mộng xuân, Giấc mộng trần để chỉ về đời sống của con người nơi cõi trần.

    (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Huỳnh lương một giấc cuộc đời in.)

    Giải mộng trần gian: Cởi bỏ giấc mộng trần, tức là cởi bỏ cuộc sống nơi cõi trần. Ý nói: Ðã chết.

    Câu 2: Cái chết nơi cõi trần là để linh hồn trở về nơi quê cũ.

    Câu 3: Dìu đường thoát tục nắm phan.

    GIẢI NGHĨA

    Dìu: Dẫn dắt.

    Thoát tục: Linh hồn thoát ra khỏi cõi trần.

    Phan: Cây phướn dùng để dẫn đường.

    Câu 3: Khi linh hồn thoát ra khỏi cõi trần thì phải đi theo cây phướn dẫn đường.

    Câu 4: Trông Kinh Bạch Ngọc định thần giải căn.

    GIẢI NGHĨA

    Trông: Nhìn, trông thấy.

    Kinh Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, tòa lâu đài bằng ngọc trắng là nơi ngự của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

    Ðịnh thần: Làm cho tinh thần ổn định, bình tỉnh trở lại.

    Giải căn: Cởi bỏ cái gốc rễ, tức là cởi bỏ hết tất cả các việc làm dù thiện dù ác trong lúc còn sống nơi cõi trần.

    Câu 4: Nhìn lên Bạch Ngọc Kinh đặng định tỉnh tinh thần và cởi bỏ hết các việc làm trong lúc còn sống nơi cõi trần.

    Câu 5-6: Diêu Trì Cung sai nàng Tiên Nữ, Phép Lục Nương gìn giữ chơn hồn.

    GIẢI NGHĨA

    Lục Nương: Vị Nữ Tiên đứng hàng thứ 6 trong Cửu vị Tiên Nương ở Diêu Trì Cung nơi cõi thiêng liêng. Lục Nương có Bửu pháp là Cây Phướn Truy Hồn hay Phướn Tiêu Diêu để gìn giữ và dẫn dắt các Chơn hồn đi vào Cửu Trùng Thiên.

    CHƠN HỒN: Nghĩa thông thường là Chơn linh, Linh hồn. Nhưng trong tất cả các bài kinh do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ, Ngài đều dùng từ ngữ Chơn hồn để chỉ Chơn thần của con người, tức là Xác thân Thiêng Liêng, hay Nhị xác thân.

    Câu 5-6: Ðức Phật Mẫu nơi Diêu Trì Cung sai Tiên Nữ Lục Nương cầm Phướn Truy hồn đến gìn giữ Chơn thần người mới chết.

    Câu 7 -8: Tây phương Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn, Phướn linh khai mở nẻo đường Lôi Âm.

    GIẢI NGHĨA

    Tây phương: Chỉ cõi Tây Phương Cực Lạc, hay Cực Lạc Thế Giới, vì cõi nầy ở về hướng Tây, so với Ngọc Hư Cung. Tây Phương Cực Lạc có chùa Lôi Âm (Lôi Âm Tự).

    Thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà làm Chưởng giáo Cực Lạc Thế Giới. Sang thời Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà trao chức vụ nầy lại cho Ðức Di-Lạc Vương Phật, Giáo Chủ Hội Long Hoa, và Ðức A-Di-Ðà vào ngự nơi Lôi Âm Tự.

    Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn: là vị Phật có nhiệm vụ tiếp rước và dẫn dắt các Chơn hồn đến Cực Lạc Thế Giới. Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn cầm Cây Phướn Tiếp Dẫn, có giáng cơ cho bài thi:

    Tang điền thương hải chẳng bao xa,
    Khuyên trẻ lo tu kịp tuổi già.
    Danh lợi đường đời như cụm khói,
    Công thành cửa Phật tợ Liên hoa.
    Lăng xăng mặt đất lo không cửa,
    Thanh tịnh vườn Tiên khỏe vạn nhà.
    Nhớ tới Long Hoa gần sắp đặt,
    Bần Tăng vội vã dắt thuyền qua.

    (Trích trong Văn Thi Hiệp Tuyển của Phối Sư Thái Ðến Thanh)

    Câu 7-8: Nơi cõi Cực Lạc Thế Giới ở về hướng Tây, Ðức Phật Tiếp Dẫn Ðạo Nhơn cầm cây Phướn linh là cây Phướn Tiếp Dẫn, đi khai mở con đường đi đến Lôi Âm Tự.

    Câu 9-10: (Tên họ kẻ qui vị) thành tâm cầu nguyện, Nguyện Chí Tôn linh hiển độ sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Ớ: Cất tiếng gọi tên họ của người đang hấp hối hay vừa mới dứt hơi.

    Thành tâm: Tấm lòng thành thật.

    Cầu nguyện: Cầu là xin, nguyện là mong ước. Cầu nguyện là cầu xin Ðức Chí Tôn ban cho mình điều mà mình mong ước.

    Linh hiển: Linh là thiêng liêng, hiển là hiện ra rõ ràng. Linh hiển là hiện rõ ra một cách Thiêng Liêng huyền diệu.

    Ðộ sanh: Ðộ là cứu giúp, sanh là sống. Ðộ sanh là cứu giúp thoát qua biển khổ để được sống nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Câu 9-10: Kêu gọi Chơn hồn người chết hãy thành tâm cầu nguyện Ðức Chí Tôn, xin Ðức Chí Tôn linh hiển cứu giúp thoát qua biển khổ để được đi lên sống nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Câu 11-12: Ăn năn sám hối tội tình, Xét câu Minh Thệ, gởi mình cõi thăng.

    GIẢI NGHĨA

    Ăn năn: Cảm thấy ray rứt đau xót trong lòng về lầm lỗi của mình đã gây ra.

    Sám hối: Ân hận những lỗi lầm của mình và thật lòng muốn sửa đổi, không để cho tái phạm nữa.

    Tội tình: Tội lỗi đáng bị trừng phạt.

    Cõi thăng: Cõi của các linh hồn được siêu thăng, tức là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Minh Thệ: Minh là thề ước, Thệ là thề nguyền. Minh Thệ là lời thề hứa chắc phải thực hiện đúng điều đã nguyện.

    Khi một người muốn nhập môn vào Ðạo Cao Ðài, người đó phải lập Minh Thệ trước Thiên bàn thờ Ðức Chí Tôn, có vị Chánh Trị Sự hay của Chức sắc sở tại chứng kiến.

    Lời Minh Thệ do Ðức Chí Tôn đặt ra, có in trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 17, gồm 36 chữ, chép ra như sau:

    Tôi tên ....................... tuổi ..........

    "Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng
    1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
    đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ
    13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24
    Cao Ðài, như sau lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục."
    25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

    Xét câu Minh Thệ: Hồi tưởng xem xét lại trong suốt kiếp sanh của mình nơi cõi trần, mình có giữ đúng Lời Minh Thệ của mình không? Tức là:

    - Có đổi dạ đổi lòng không?
    - Có hiệp đồng cùng chư môn đệ không?
    - Có gìn luật lệ Cao Ðài không?

    Nếu có điều nào mình làm không đúng Lời Minh Thệ thì phải ăn năn sám hối và cầu khẩn Ðức Chí Tôn tha thứ.

    Câu 11-12: Hãy nhớ rõ Lời Minh Thệ khi nhập môn vào Ðạo để tự xét mình mà ăn năn sám hối tội tình, cầu khẩn Ðức Chí Tôn tha thứ và cứu rỗi để được siêu thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Câu 13: Dầu nghiệt chướng số căn quả báo.

    GIẢI NGHĨA

    Nghiệt chướng: Nghiệt là cái mầm ác tạo nghiệp ác, Chướng là trở ngại. Nghiệt chướng là sự ngăn trở do nghiệp ác gây ra. Kiếp trước mình làm nhiều việc gian ác, nó sẽ trở thành Nghiệp ác, ảnh hưởng lên kiếp sống nầy, làm cho kiếp nầy phải bị nhiều chướng ngại như: Bệnh tật, tai ương. Sự báo ứng đó hoàn toàn theo đúng Luật Nhân quả.

    Số căn: Cái số phận của mình được định bởi cái nghiệp do các việc làm thiện ác của mình đã gây ra trong các kiếp sống trước.

    Quả báo: Cái kết quả báo đáp lại những việc làm thuở trước. Làm lành thì được báo đáp bằng những điều may mắn tốt đẹp; làm ác thì được báo đáp bằng những tai họa và phiền não.

    Câu 13: Dù cho số phận mình bị nghiệt chướng nên gặp phải hoạn nạn tai ương báo đáp lại.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952: Dầu nghiệp chướng ...
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975: Dầu nghiệt chướng ...

    Nghiệp chướng: Nghiệp là con đường đi từ Nhân tới Quả. Nghiệp được tạo ra bởi các việc làm lành hay dữ trong kiếp trước, tuy nó vô hình nhưng nó ảnh hưởng lên kiếp sống hiện tại, bằng sự may và sự rủi, để làm cho kiếp sống hiện tại được hạnh phúc hay đau khổ. Việc làm lành sẽ tạo nên Nghiệp lành (Thiện nghiệp), cái Nghiệp lành nầy nó theo ủng hộ mình, nâng đỡ mình (mà mình gọi đó là dịp may). Còn việc làm ác sẽ tạo ra Nghiệp ác (Bất thiện nghiệp), cái Nghiệp ác nầy nó theo báo hại mình (mà mình gọi đó là xui xẻo, rủi ro) khiến mình bị hoạn nạn tai ương và phiền não.

    Vậy, Nghiệp chướng là những ngăn trở khó khăn trong kiếp sống hiện tại do Nghiệp ác tạo ra.

    Hai từ ngữ: Nghiệt chướng và Nghiệp chướng, xem như đồng nghĩa, nhưng Nghiệt chướng có ý nghĩa rõ rệt hơn.

    Câu 14: Ðừng hãi kinh, cầu đảo Chí Tôn.

    GIẢI NGHĨA

    Hãi kinh: Hãi là sợ, kinh là sợ sệt lắm. Hãi kinh hay Kinh hãi là rất sợ sệt.

    Cầu đảo: Cầu là xin; đảo là cúng tế cầu xin. Cầu đảo là cúng tế cầu xin.

    Câu 14: Ðừng quá sợ sệt, hãy cúng tế và cầu khẩn Chí Tôn.

    Câu 15-16: Cửa Ðịa ngục khá lánh chơn. Ngọc Hư Cực Lạc đon đường ruổi dong.

    GIẢI NGHĨA

    Ðịa ngục: Cõi tối tăm thấp kém nhất, dùng để giam giữ và trừng trị các linh hồn tội lỗi.

    Khá: Nên.

    Lánh chơn: Bước đi lánh ra chỗ khác.

    Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung, ở từng Trời thứ 10 Hư Vô Thiên, là cơ quan cầm quyền chánh trị CKTG. Không có một ngôi sao nào, một Mặt Trời nào hay một Ðịa cầu nào đứng trong Càn Khôn Vũ Trụ mà không chịu dưới quyền của Ngọc Hư Cung.

    Cực Lạc: Cực Lạc Thế giới hay Tây phương Cực Lạc, là cõi của chư Phật, hoàn toàn an vui sung sướng.

    Ðon đường: Hỏi thăm dò cho biết đường đi.

    Ruổi dong: Ði thẳng một mạch cho mau tới nơi.

    Câu 15-16: Hãy bước đi lánh xa cõi Ðịa ngục, hỏi thăm đường để đi thẳng một mạch tới Ngọc Hư Cung và Cực Lạc Thế Giới.

    Câu 17-18: Dầu trọn kiếp sống không nên đạo, Dầu oan gia tội báo buộc ràng.

    GIẢI NGHĨA

    Sống không nên đạo: Sống mà không làm được việc gì có tánh cách đạo đức, sống mà không làm được việc gì hữu ích cho Ðạo. Ý nói: Người không thực tâm tu hành, theo Ðạo đặng dựa hơi cầu lợi, không thành tâm tín ngưỡng.

    Oan gia: Oan là thù giận, gia là người. Oan gia là người có mối thù hận với mình.

    Tội báo: Báo đáp lại cái tội lỗi đã gây ra lúc trước.

    Buộc ràng: Ràng buộc, dùng dây buộc lại, không cho sút ra.

    Câu 17-18: Dầu cho trọn kiếp sống mà không làm được việc gì đạo đức, dầu cho kẻ oan gia đến bắt buộc phải đền trả cái tội lỗi đã gây ra lúc trước.

    Câu 19: Chí Tôn xá tội giải oan.

    GIẢI NGHĨA

    Xá tội: Tha thứ tội lỗi.

    Giải oan: Cởi bỏ hết các thù giận, tức là cởi bỏ hết các mối dây oan nghiệt.

    Câu 19: Cầu xin Ðức Chí Tôn xá tội và giải oan.

    Trong thời kỳ Khai Ðạo, Ðức Chí Tôn đại khai ân xá, ban cho Phép Giải Oan để cởi bỏ hết các oan nghiệt đã gây ra trong kiếp sống, đồng thời cũng ban cho: Phép Xác để tẩy rửa Chơn thần cho trong sạch. Phép Ðoạn căn để cắt đứt 7 Dây Oan nghiệt, cho Vong hồn được siêu thăng. Ðây là thời kỳ mà nhơn loại được hưởng nhiều ơn huệ nhứt của Chí Tôn.

    Câu 20: Thánh Thần Tiên Phật cứu nàn độ vong.

    GIẢI NGHĨA

    Cứu nàn: Cứu giúp tai nạn. Chữ Nàn là do chữ Nạn đọc trại ra.

    Ðộ vong: Cứu độ vong hồn (linh hồn người chết).

    Câu 20: Các Ðấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, cứu giúp các tai nạn và độ rỗi linh hồn người chết.

    Câu 21-22: Kìa chiếu diệu bóng hồng Bắc Ðẩu, Kìa im đìm phúc hậu Nam Tào.

    GIẢI NGHĨA

    Chiếu diệu: Chiếu là rọi sáng, diệu là rực rỡ. Chiếu diệu là chiếu sáng rực rỡ.

    Bóng hồng: Ánh sáng màu hồng.

    Bắc đẩu: Ngôi sao sáng ở hướng Bắc, nằm đúng trên trục quay của Ðịa cầu, nên còn được gọi là sao Bắc Cực. Sao Bắc đẩu là một định tinh, các ngôi sao khác thì chuyển động quanh sao Bắc đẩu. Cho nên sao Bắc đẩu là trung tâm của Càn Khôn Vũ Trụ. Do đó, Ðức Chí Tôn bảo vẽ Thiên Nhãn ngay trên ngôi sao Bắc đẩu. Sao Bắc đẩu nằm trong chùm sao Thất Tinh, gồm 7 ngôi sao, mà Thiên văn học gọi là Tiểu Hùng Tinh. Chùm sao Thất tinh có hình cái bánh lái tàu, sao Bắc đẩu là ngôi sao ở đầu cán bánh lái.

    Nam Tào: Ngôi sao ở hướng Nam. Sao Nam Tào cũng được gọi là sao Nam Cực, vì nó xác định gần đúng hướng Nam của Ðịa cầu. Rất khó nhìn thấy sao Nam Tào, vì nó ở rất thấp, nằm gần chơn trời. Muốn tìm sao Nam Tào, chúng ta tìm chùm sao chữ Thập (La Croix du Sud), kéo một đường thẳng tưởng tượng nối dài nét sổ dài của chữ Thập xuống phía chơn trời, chúng ta gặp một ngôi sao hơi lu, đó là Nam Tào.

    Hai vị Tiên cai quản 2 ngôi sao Nam Tào và Bắc Ðẩu là: Nam Cực Tinh Quân và Bắc Ðẩu Tinh Quân. Tương truyền hai vị Tinh Quân nầy coi Bộ Sanh và Bộ Tử của nhơn loại.

    Im đìm: Yên lặng hoàn toàn.

    Phúc hậu: Phúc hay Phước là điều may mắn tốt lành, Hậu là dày dặn. Phúc hậu là phước đức dày dặn, hay làm điều lành cho người khác.

    Câu 21-22: Kìa là ngôi Bắc đẩu chiếu ra rực rỡ ánh sáng màu hồng; kìa là ngôi Nam Tào lặng yên và phúc hậu.

    Câu 23-24: Cảnh thăng trổi gót cho mau, Xa vòng tục lự đặng chầu Chí Linh.

    GIẢI NGHĨA

    Cảnh thăng: Cảnh mà các linh hồn siêu thăng đến ở, đó là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Trổi gót: Cất bước lên đường. Trổi là cất lên, gót là cái gót chân.

    Tục lự: Tục là tầm thường thấp kém, chỉ cõi trần; Lự là lo lắng. Tục lự là những nỗi lo lắng của con người sống nơi cõi trần.

    Chầu: Hầu vua để chờ nghe mệnh lệnh.

    Chí Linh: Rất thiêng liêng, chỉ Ðức Chí Tôn.

    Câu 23-24: Hãy cất bước đi mau lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, lánh xa khỏi vòng tục lự, đặng lên chầu Ðức Chí Tôn.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952: tục lụy...
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975: tục lự ...
    Tục lụy: Lụy là buồn rầu, phiền não;
    Tục lự
    là những nỗi phiền não nơi cõi trần.

  • Kinh Tận độ Vong linh: Kinh Khi Ðã Chết Rồi

    Kinh Khi Ðã Chết Rồi
    (Giọng Nam ai)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Ba mươi sáu cõi Thiên tào,
    Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.
    Phía trên là Tam thập lục Thiên. Vào trong Bát Quái Đài rồi mới vào được Ngọc Hư Cung.
    3. Quê xưa trở, cõi đọa từ. Trở lại cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, từ bỏ cõi trần vì nó là cõi đọa.
    4. Ðoạt cơ thoát tục, bấy chừ tuyệt luân. Ðoạt đặng cơ quan giải thoát khỏi cõi trần, tức nhiên lúc bấy giờ dứt hẳn sự luân hồi: Ðắc đạo.
    5. Dưới Chín lớp Liên thần đưa bước. Phía dưới Chín từng Trời, có một bông sen mầu nhiệm gọi là Liên thần, đưa chơn hồn bay lên các từng Trời.
    6. Trên hồng quang phủ phước tiêu diêu. Trên thì có ánh sáng màu hồng bao phủ ban phước cho được thảnh thơi nhàn hạ dạo chơi đây đó.
    7.
    8.
    Linh Tiêu Ðiện bảng danh nêu,
    Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.
    Nơi Linh Tiêu Ðiện, tên họ được nêu lên bảng, đó là những nguyên nhân đắc đạo, hình dáng xinh đẹp, cao thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
    9. Kinh Bạch Ngọc muôn lằn điển chiếu. Bạch Ngọc Kinh phát ra muôn ánh hào quang chiếu sáng chung quanh, giống như các làn sóng điện.
    10. Kêu Chơn hồn vịn níu Chơn linh. Kêu gọi Chơn thần hãy giữ chặt Chơn linh.
    11.
    12.
    Năng lai năng khứ khinh khinh,
    Mau như điển chiếu, nhẹ thành bóng mây.
    (Chơn hồn) có khả năng đến và đi một cách nhẹ nhàng, nhanh như làn sóng điện, nhẹ như đám mây bay.
    13. Cửa Tây phương khá bay đến chốn. Nên bay đến cửa đi vào cõi Cực Lạc Thế Giới ở hướng Tây.
    14. Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu. Tiêu diệt những tình cảm xấu để hưởng được sự vui vẻ thảnh thơi đi chơi đây đó.
    15. Tiên phong Phật cốt mỹ miều. Vóc dáng như Tiên, cốt cách như Phật, thật là xinh đẹp.
    16. Vào Kinh Bạch Ngọc lễ triều Chí Linh. Vào Bạch Ngọc Kinh để chầu lạy Ðức Chí Tôn.

    (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Khi Ðã Chết Rồi do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho, dùng để tụng cho những Tín đồ khi đã chết rồi, tụng kèm với Kinh Cầu Siêu.

    Câu 1-2: Ba mươi sáu cõi Thiên tào, Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư.

    GIẢI NGHĨA

    Tào: Cơ quan có nhiệm vụ chuyên môn trong Triều đình.

    Thiên Tào: Cơ quan có nhiệm vụ chuyên môn trong Triều đình của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Mỗi Thiên Tào là một từng Trời.

    Ba mươi sáu cõi Thiên Tào là 36 từng Trời, gọi là Tam thập lục Thiên.

    Nhập: Ði vào.

    Bát Quái: Bát Quái Đài nơi cõi thiêng liêng.

    Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống mô tả Bát Quái Ðài và Ngọc Hư Cung, xin chép ra sau đây :

    "Ðài ấy có 8 góc, kêu là Bát Quái Ðài, không thể gì chúng ta tả ra với lời nói đặng, bởi Ðài ấy huyền bí, biến hóa vô cùng, nó có 8 cửa, trong 8 cửa, chúng ta ngó thấy cả Vạn linh và vật loại, các hình thể vạn linh đều xuất hiện, hình ảnh sáng suốt hiện ra hào quang chiếu diệu. Trong 8 góc có 8 cái cầu. Lạ thay! Cầu ấy không phải bằng cây ván mà nó là 8 đạo hào quang. Cầu ấy bắc ngang bờ. Dưới cầu ấy, chúng ta ngó thấy dường như một Bích Hải, nước xao sóng dợn như biển sôi nổi đó vậy. Trong 8 góc, chúng ta thấy đó, chắc cả thảy đều để ý nơi góc ta đến, thấy nhơn loại đi tới đi lui nhiều hơn hết. Lạ thay! Cầu ấy rất huyền diệu, ai đứng lên đó được, mới biết mình nhập vô Bát Quái Đài.

    Lúc để bước lên cầu, cầu ấy chuyển đi, làm cho chúng ta phải yếu, đi không đặng, chúng ta muốn thối bộ. Khi chơn vừa bước tới, chính mình ta ngó thấy như mình yếu đi, nhưng người nào bước tới cũng đặng. Ði được nửa chừng, nếu không đủ Thiên vị, hay vì tội tình oan gia nghiệt chướng chi mà chúng ta đã đào tạo nơi mặt thế nầy, chúng ta tới nửa cầu sẽ bị lọt xuống Bích Hải. Lọt xuống đó rồi, ta thấy hồi lúc đi, còn ở trên cầu, chúng ta thấy hình ảnh còn đẹp đẽ tốt tươi, hễ lọt xuống Bích Hải rồi, chúng ta thấy hình thù đen thui dị hợm lắm, ta không thể tưởng tượng, còn hơn loài mọi kia, tối đen như vậy." (Bích Hải cũng còn được gọi là Ao Ô Trì).

    "Vậy kiếm hiểu coi Bát Quái Đài ấy là gì? Phải chăng là Tòa Tam Giáo của Ðức Chí Tôn do Thánh Ngôn để lại. ...

    Nếu chúng ta xin phép Ðức Chí Tôn vô Ðài ấy, chúng ta biết trước là Tòa Tam Giáo Ngọc Hư Cung. ...

    Chí Tôn có Bát Quái Đài, chúng ta ở ngoài thấy mênh mông, hào quang chiếu diệu một Tòa nhà 8 cửa. Khi chúng ta vô rồi, Ðài ấy biến mất, chỉ còn Càn Khôn Vũ Trụ chung quanh. Ðài ấy vẫn xây, xây mãi, mà ta biết rằng Ðài ấy là Tòa Tam Giáo, chúng ta không thấy cái trạng thái hình thể nó ra sao. Khi chúng ta đến, hào quang chiếu diệu xông lên như ngọn lửa vậy."

    Câu 1-2: Phía trên là Tam thập lục Thiên. Vào trong Bát Quái Đài rồi mới vào được Ngọc Hư Cung.

    Câu 3: Quê xưa trở, cõi đọa từ.

    GIẢI NGHĨA

    Quê xưa: Nơi mình đã được sanh ra, lớn lên và sống ở đó nhiều năm. Quê xưa thật sự của mình là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Trở: Trở lại, trở về.

    Từ: Từ bỏ, từ giã.

    Cõi đọa: Cõi trần. "Trần là cõi khổ để đọa bậc Thánh Tiên có lầm lỗi. Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả, phải mất cả Chơn linh là Luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là Khách trần." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. II. 3)

    Câu 3: Trở lại cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, từ bỏ cõi trần vì nó là cõi đọa.

    Câu 4: Ðoạt cơ thoát tục, bấy chừ tuyệt luân.

    GIẢI NGHĨA

    Ðoạt cơ thoát tục: Ðoạt đặng cơ quan giải thoát khỏi cõi trần. Tục là tầm thường thấp kém, chỉ cõi trần.

    Bấy chừ: Bấy giờ.

    Tuyệt: Dứt hẳn.

    Luân: Luân hồi.

    Tuyệt luân: Dứt hẳn luân hồi, tức là đắc đạo.

    Câu 4: Ðoạt đặng cơ quan giải thoát khỏi cõi trần, tức nhiên lúc bấy giờ dứt hẳn sự luân hồi: Ðắc đạo.

    Câu 5: Dưới Chín lớp Liên thần đưa bước.

    GIẢI NGHĨA

    Chín lớp: Chín từng Trời, tức là Cửu Trùng Thiên.

    Liên: Bông sen.

    Thần: Thiêng liêng mầu nhiệm. Liên thần là cái bông sen mầu nhiệm, mà khi Chơn hồn bước lên đứng trên đó thì bông sen bay lên, đưa chơn hồn đi lên các từng Trời.

    Ðưa bước: Ðưa đi.

    Câu 5: Phía dưới Chín từng Trời, có một bông sen mầu nhiệm gọi là Liên thần, đưa chơn hồn bay lên các từng Trời.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 1974: đưa bước.
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1975: đưa rước.

    Câu 6: Trên hồng quang phủ phước tiêu diêu.

    GIẢI NGHĨA

    Hồng quang: Ánh sáng màu hồng.

    Phủ: Bao trùm xuống, bao phủ.

    Phước: Ðiều may mắn tốt lành.

    Tiêu diêu: Tiêu là lượn trên cao, diêu hay dao là xa xôi. Tiêu diêu là đi chơi đó đây một cách thảnh thơi nhàn hạ.

    Câu 6: Trên thì có ánh sáng màu hồng bao phủ ban phước cho được thảnh thơi nhàn hạ dạo chơi đây đó.

    Câu 7-8: Linh Tiêu Ðiện bảng danh nêu, Nguyên căn đẹp vẻ mỹ miều cao thăng.

    GIẢI NGHĨA

    Linh Tiêu Ðiện: Nơi Ðức Chí Tôn họp Thiên triều.

    Bảng danh: Tấm bảng đề tên những người thi đậu (tức là đắc đạo).

    Bảng danh nêu: Nêu tên họ lên bảng cho biết đó là những người đắc đạo trở về.

    Nguyên căn: Nguyên là buổi đầu, căn là gốc rễ. Nguyên căn là những người được sanh ra từ buổi đầu tiên, lúc khai Thiên, được gọi là Nguyên nhân.

    Mỹ miều: Xinh đẹp.

    Cao thăng: Bay lên cao, tức là được siêu thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Câu 7-8: Nơi Linh Tiêu Ðiện, tên họ được nêu lên bảng, đó là những nguyên nhân đắc đạo, hình dáng xinh đẹp, cao thăng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Câu 9: Kinh Bạch Ngọc muôn lằn điển chiếu.

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, nơi thường ngự của Ðức Chí Tôn.

    Lằn điển: Làn sóng điện.

    Chiếu: Phát ra và rọi sáng. Muôn lằn điển chiếu là chỉ ánh hào quang phát ra vì nó giống như các làn sóng điện. Ngày nay, khoa học cho chúng ta biết rằng, ánh sáng truyền đi theo dạng sóng, giống y như các làn sóng điện truyền thanh hay truyền hình.

    Câu 9: Bạch Ngọc Kinh phát ra muôn ánh hào quang chiếu sáng chung quanh, giống như các làn sóng điện.

    Câu 10: Kêu Chơn hồn vịn níu Chơn linh.

    GIẢI NGHĨA

    Chơn hồn: Chơn thần. Chúng ta lưu ý rằng, Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn luôn luôn dùng chữ Chơn hồn để chỉ Chơn thần.

    Vịn: Ðặt bàn tay tựa vào để có thế vững.

    Níu: Nắm chặt.

    Vịn níu: Dùng tay nắm chặt.

    Chơn linh: Linh hồn.

    Câu 10: Kêu gọi Chơn thần hãy giữ chặt Chơn linh.

    Câu 11-12: Năng lai năng khứ khinh khinh, Mau như điển chiếu, nhẹ thành bóng mây.

    GIẢI NGHĨA

    Năng: Chữ Hán, Năng là có khả năng làm được việc.

    Lai: Tới, đến.

    Khứ: Ði.

    Năng lai: Có khả năng đi đến.

    Khinh: Nhẹ.

    Khinh khinh: Nhẹ nhàng.

    Mau như điển chiếu: Ði nhanh như làn sóng điện truyền đi.

    Câu 11-12: (Chơn hồn) có khả năng đến và đi một cách nhẹ nhàng, nhanh như làn sóng điện, nhẹ như đám mây bay.

    Câu 13: Cửa Tây phương khá bay đến chốn.

    GIẢI NGHĨA

    Cửa Tây phương: Cửa đi vào Cực Lạc Thế Giới ở hướng Tây.

    Câu 13: Nên bay đến cửa đi vào cõi Cực Lạc Thế Giới ở hướng Tây.

    Câu 14: Diệt trần tình vui hưởng tiêu diêu.

    GIẢI NGHĨA

    Trần: Bụi bặm, chỉ cõi trần.

    Trần tình: Những tình cảm của con người nơi cõi trần, thường có ý chỉ các tình cảm xấu: Nộ (Giận), Ố (Ghét), Ai (Buồn), Dục (Muốn). Những tình cảm xấu nầy thường làm mất công đức và gây chướng ngại trên đường tu tiến, nên cần phải diệt nó bằng cách chuyển hóa nó vào nẻo cao thượng.

    Tiêu diêu: (Xem Câu 6).

    Câu 14: Tiêu diệt những tình cảm xấu để hưởng được sự vui vẻ thảnh thơi đi chơi đây đó.

    Câu 15: Tiên phong Phật cốt mỹ miều.

    GIẢI NGHĨA

    Tiên phong: Dáng dấp đẹp như Tiên. Phong là dáng dấp.

    Phật cốt: Cốt cách như Phật.

    Mỹ miều: Xinh đẹp.

    Câu 15: Vóc dáng như Tiên, cốt cách như Phật, thật là xinh đẹp.

    Câu 16: Vào Kinh Bạch Ngọc lễ triều Chí Linh.

    GIẢI NGHĨA

    Lễ triều: Lễ là lạy, triều là chầu vua. Lễ triều là chầu lạy Ðức Chí Tôn.

    Chí Linh: chỉ Ðức Chí Tôn.

    Câu 16: Vào Bạch Ngọc Kinh để chầu lạy Ðức Chí Tôn.

  • Kinh Tận độ Vong linh: Kinh Tẫn Liệm

    Kinh Tẫn Liệm
    (Giọng Nam ai)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Dây oan nghiệt dứt rời trái chủ. Những sợi dây oan nghiệt được cắt đứt rồi thì Chơn thần mới dứt rời các chủ nợ mà bay lên được.
    2. Nương huyền linh sạch giũ thất tình. Dựa vào phép huyền diệu Thiêng Liêng để giũ sạch thất tình.
    3. Càn Khôn bước Thánh thượng trình. Bước chơn mầu nhiệm lên đường đi vào Càn Khôn Vũ Trụ.
    4. Giải xong xác tục mượn hình Chí Tôn. Cởi bỏ xong xác phàm thì Chơn thần liền xuất ra.
    5. Khối vật chất vô hồn viết tử. Thể xác của con người không có linh hồn ngự trị thì gọi là chết.
    6. Ðất biến hình tự thử qui căn. Thể xác con người do Ðất biến hoá ra thì khi chết, thể xác nầy từ đó biến hóa trở lại thành Ðất.
    7. Ðừng gìn thân ái nghĩa nhân. Nên cởi bỏ ra hết các thứ tình cảm thân ái và các điều nhân nghĩa (để Chơn thần dứt khoát ra đi).
    8. Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê. Rộn rịp thoát khỏi nơi đau khổ nầy và đi xa dần cho khỏi cõi trần.
    9. Hồn Trời hóa trở về Thiên cảnh. Linh hồn của con người do Trời sanh ra thì nay trở về cõi Trời.
    10. Xác Ðất sanh đến lịnh phục hồi. Thể xác do Ðất tạo nên nay được lịnh trở về Ðất.
    11. Từ từ Cực Lạc an vui. Thong thả đi đến cõi Cực Lạc Thế Giới hưởng sự an vui.
    12. Lánh nơi trược khí hưởng mùi siêu thăng. Linh hồn bay lên lánh xa mùi trược khí của cõi trần, hưởng được siêu thăng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Tẫn Liệm do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho để đồng nhi tụng trước khi liệm thi hài người chết vào trong quan tài.

    Tẫn liệm: Tẫn là đặt xác người chết vào trong áo quan rồi đậy nắp đóng lại cho thật kín, Liệm là bọc xác người chết cho thật kín bằng những lớp vải, và đặt vào áo quan.

    Câu 1: Dây oan nghiệt dứt rời trái chủ.

    GIẢI NGHĨA

    Oan: Thù giận.

    Nghiệt: Nghiệp ác.

    Dây oan nghiệt: Những sự thù giận (Oan) và những nghiệp ác (Nghiệt) mà con người đã gây ra trong suốt kiếp sống, tạo thành những sợi dây oan nghiệt vô hình ràng buộc Chơn thần, không cho Chơn thần xuất ra khỏi thể xác, mặc dầu thể xác đã chết rồi.

    Trái chủ: Trái là món nợ, Chủ là người làm chủ. Trái chủ là người chủ nợ. Nợ đây là nợ oan nghiệt. Ðó là những người mà trước đây họ thù giận mình vì mình đã hãm hại họ, họ trở thành chủ nợ oan nghiệt, còn mình là con nợ oan nghiệt, họ chờ dịp để đòi mình phải trả món nợ oan nghiệt đó.

    Câu 1: Những sợi dây oan nghiệt được cắt đứt rồi thì Chơn thần mới dứt rời các chủ nợ mà bay lên được.

    Trong thời kỳ Ðại Ân Xá, Ðức Chí Tôn ban cho Phép Ðoạn Căn để Chức sắc hành pháp cắt đứt các sợi dây oan nghiệt vô hình nầy, giúp cho Chơn thần người chết xuất ra khỏi xác mà bay trở về cõi Thiêng Liêng. (Xem: Câu 3 Kinh Ðệ Nhứt Cửu).

    Câu 2: Nương huyền linh sạch giũ thất tình.

    GIẢI NGHĨA

    Nương: Dựa vào.

    Huyền: Sâu kín, huyền diệu.

    Linh: Thiêng liêng.

    Nương huyền linh: Dựa vào phép huyền diệu thiêng liêng.

    Giũ: Lắc mạnh cho rớt ra các bụi đất hay chất dơ.

    Thất tình: Bảy tình cảm của con người gồm: Hỷ (mừng), Nộ (giận), Ái (thương), Ố (ghét), Ai (buồn), Lạc (vui), Dục (muốn).

    Sạch giũ: Làm cho sạch sẽ bằng cách giũ mạnh cho rớt ra hết các chất bẩn.

    Câu 2: Dựa vào phép huyền diệu Thiêng Liêng để giũ sạch thất tình.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952: sạch đủ thất tình.
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975: sạch giũ thất tình.

    Câu 3: Càn Khôn bước Thánh thượng trình.

    GIẢI NGHĨA

    Càn Khôn: Càn Khôn Vũ Trụ.

    Thánh: Thiêng liêng mầu nhiệm.

    Thượng: Bước lên. Trình: Ðường đi.

    Thượng trình: Lên đường, đồng nghĩa với Thượng lộ.

    Câu 3: Bước chơn mầu nhiệm lên đường đi vào Càn Khôn Vũ Trụ.

    Câu 4: Giải xong xác tục mượn hình Chí Tôn.

    GIẢI NGHĨA

    Giải: Cởi bỏ ra.

    Xác tục: Thể xác phàm bằng xương bằng thịt của con người nơi cõi trần. Khi thể xác nầy chết thì nó sẽ thúi rã biến thành đất.

    Hình Chí Tôn: Hình ảnh của Ðức Chí Tôn. Mượn hình Chí Tôn là chỉ Chơn thần con người, bởi vì khi Ðức Phật Mẫu tạo hóa ra Chơn thần của con người thì lấy theo hình ảnh của Ðức Chí Tôn.

    Câu 4: Cởi bỏ xong xác phàm thì Chơn thần liền xuất ra.

    Câu 5: Khối vật chất vô hồn viết tử.

    GIẢI NGHĨA

    Khối vật chất: Thể xác phàm của con người, vì nó chỉ là một khối vật chất, được nuôi dưỡng và lớn lên bằng vật chất, và khi chết thì thúi rã biến trở thành vật chất lẫn vào đất.

    Vô hồn: Không có linh hồn ngự trong thể xác.

    Viết tử: Nói rằng chết. Viết là nói rằng, Tử là chết.

    Câu 5: Thể xác của con người không có linh hồn ngự trị thì gọi là chết.

    Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người một Ðiểm Linh quang làm Linh hồn để tạo sự sống cho thể xác, gìn giữ sự sống ấy và điều khiển các hoạt động của thể xác. Khi Linh hồn ấy xuất ra khỏi thể xác thì thể xác hết hoạt động và chết.

    Câu 6: Ðất biến hình tự thử qui căn.

    GIẢI NGHĨA

    Ðất biến hình: Ðất biến ra hình thể của con người, bởi vì thể xác con người được nuôi dưỡng và lớn lên bằng những thực phẩm do Ðất sản xuất ra.

    Tự thử: Từ đó, từ lúc ấy.

    Qui căn: Trở về gốc, gốc ấy là Ðất. Qui là trở về, căn là gốc rễ.

    Câu 6: Thể xác con người do Ðất biến hoá ra thì khi chết, thể xác nầy từ đó biến hóa trở lại thành Ðất.

    Câu 7: Ðừng gìn thân ái nghĩa nhân.

    GIẢI NGHĨA

    Ðừng gìn: Không nên gìn giữ, tức là phải cởi bỏ ra hết.

    Thân ái: Gần gũi thương yêu.

    Nghĩa: Cách cư xử theo lẽ phải, hợp đạo lý.

    Nhân: Lòng thương người mến vật.

    Câu 7: Nên cởi bỏ ra hết các thứ tình cảm thân ái và các điều nhân nghĩa (để Chơn thần dứt khoát ra đi).

    KHẢO DỊ:
    * Kinh TÐ-TÐ 1936, Kinh Lễ 1952: Ðừng gìn.
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975: Ðừng vì.

    Câu 8: Xôn xao thoát khổ xa lần bến mê.

    GIẢI NGHĨA

    Xôn xao: Rộn rịp ồn ào.

    Thoát khổ: Thoát ra khỏi các cảnh khổ não, hết khổ.

    Xa lần: Lần lần đi xa.

    Bến mê: Chỉ cõi trần.

    Câu 8: Rộn rịp thoát khỏi nơi đau khổ nầy và đi xa dần cho khỏi cõi trần.

    Câu 9: Hồn Trời hóa trở về Thiên cảnh.

    GIẢI NGHĨA

    Hóa: Sanh ra.

    Hồn Trời hóa: Linh hồn của con người do Trời sanh ra. Ðó là Ðiểm Linh quang được Ðức Chí Tôn chiết ra từ Khối Ðại Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người.

    Thiên cảnh: Cõi Trời.

    Câu 9: Linh hồn của con người do Trời sanh ra thì nay trở về cõi Trời.

    Câu 10: Xác Ðất sanh đến lịnh phục hồi.

    GIẢI NGHĨA

    Xác Ðất sanh: Thể xác con người do các thực phẩm sanh ra từ Ðất nuôi dưỡng và lớn lên, nên có thể xem như do Ðất tạo ra.

    Phục hồi: Trở về. Phục là trở lại, hồi là về.

    Câu 10: Thể xác do Ðất tạo nên nay được lịnh trở về Ðất.

    Con người có Thể xác, Chơn thần và Linh hồn. Khi đến kỳ qui định (tới số), thể xác chết tan rã trở lại thành Ðất; còn Linh hồn và Chơn thần thì xuất ra đi trở về Trời.

    Hai câu kinh 9 và 10 có ý nghĩa tương tự như đôi liễn nơi Thuyền Bát Nhã :

    Vạn sự viết vô, nhục thể Thổ sanh huờn tại Thổ,
    Thiên niên tự hữu, linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên.

    Nghĩa là:

    Muôn vật đều không, xác thịt Ðất sanh huờn lại Ðất,
    Ngàn năm tự có, linh hồn Trời ban trở về Trời.

    Câu 11: Từ từ Cực Lạc an vui.

    GIẢI NGHĨA

    Từ từ: Thong thả.

    Cực Lạc: Cực Lạc Thế Giới.

    An vui: An ổn vui vẻ.

    Câu 11: Thong thả đi đến cõi Cực Lạc Thế Giới hưởng sự an vui.

    Câu 12: Lánh nơi trược khí hưởng mùi siêu thăng.

    GIẢI NGHĨA

    Trược khí: Chất khí dơ bẩn.

    Nơi trược khí: Chỉ cõi trần, vì nơi cõi trần có nhiều trược khí, trược khí chiếm tới 2 phần, thanh khí chỉ có 1 phần. (Thanh khí là khí trong sạch).

    Siêu thăng: Bay vượt lên cao, bay lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Câu 12: Linh hồn bay lên lánh xa mùi trược khí của cõi trần, hưởng được siêu thăng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

  • Kinh Tận độ Vong linh: Kinh Cầu Siêu

    Kinh Cầu Siêu
    (Giọng Nam ai)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Ðầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ,
    A-Di-Ðà Phật độ chúng dân.
    Cúi đầu cầu khẩn lạy Ðức Phật Tổ và Ðức Phật A-Di-Ðà ở cõi Cực Lạc Thế Giới, xin cứu giúp nhơn sanh.
    3.
    4.
    Quan Thế Âm lân mẫn ân cần,
    Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc.
    Cúi đầu cầu khẩn lạy Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát, xin thương xót, lo lắng ân cần cứu vớt dân chúng nghèo khổ đang bị đày đọa khổ sở nơi cõi trần.
    5.
    6.
    Ðại Thánh Ðịa Tạng Vương Bồ Tát,
    Bố từ bi tế bạt vong hồn.
    Ðức Ðại Thánh Ðịa Tạng Vương Bồ Tát mở lòng từ bi cứu giúp các vong hồn vượt qua biển khổ.
    7.
    8.
    Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn,
    Miền Âm cảnh ngục môn khai giải.
    Xin Ðức Thái Ất Thiên Tôn cứu giúp các tai nạn khổ sở, xin khai mở và bỏ đi các cửa ngục nơi cõi Âm phủ.
    9.
    10.
    Ơn Ðông Nhạc Ðế Quân quảng đại,
    Ðộ kẻ lành chế cải tai ương.
    Ðông Nhạc Ðế Quân có lòng rộng rãi, ban ơn cứu giúp người lành và sửa đổi cho bớt tai ương.
    11.
    12.
    Chốn Dạ đài Thập Ðiện Từ Vương,
    Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.
    Nơi cõi Âm phủ, Thập Ðiện Diêm Vương nhơn từ, thấy tội nhơn bị hình phạt khổ sở thì đem lòng thương xót thảm thiết.
    13. Giảm hình phạt, bớt đường luy tiết. Làm cho giảm bớt những hình phạt và giảm bớt việc giam cầm tù tội.
    14. Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên. Tha thứ tội lỗi cho các linh hồn và tiêu diệt hết các lỗi lầm đã gây ra trong kiếp trước.
    15.
    16.
    Ðặng nhẹ nhàng thẳng đến Cung Tiên,
    Nơi phước địa ở yên tu luyện.
    Linh hồn được nhẹ nhàng bay thẳng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, và ở yên nơi đất phước để lo tu luyện.
    17.
    18.
    Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện,
    Hộ thương sanh u hiển khương ninh.
    Xin Ðức Chí Tôn và chư Phật chứng điều sở nguyện và xin gìn giữ che chở nhơn sanh ở cõi Âm cũng như ở cõi Dương được mạnh khỏe và an ổn.

    (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Cầu Siêu do Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát giáng cơ ban cho Minh Lý Ðạo (Tam Tông Miếu). Thuở mới Khai Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn dạy Ngũ Chi Minh Ðạo dâng kinh cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nên Hội Thánh đến thỉnh bài kinh nầy về làm Kinh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Bên Minh Lý gọi bài Kinh nầy là SÁM CẦU SIÊU.

    Cầu siêu: Cầu là xin, siêu là vượt lên cao, siêu thăng.

    Cầu siêu là cầu xin các Ðấng thiêng liêng cứu giúp linh hồn người chết cho được siêu thăng.

    Kinh Cầu siêu: là bài Kinh tụng cầu xin Ðức Chí Tôn và các Ðấng thiêng liêng Phật Tiên Thánh Thần ân xá tội tình và cứu giúp linh hồn người chết được siêu thăng.

    Hội Thánh có ghi chú dặn rằng: "Khi tụng hết bài Kinh Cầu siêu thì tụng tiếp bài Kinh Khi Ðã Chết Rồi (Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,...) vì sợ e cho vong hồn hoặc là người không tu mà Hội Thánh mới độ hồn, hoặc là đạo hữu phạm thệ mà đi xuống cõi Phong đô, nên trước phải tụng bài Kinh Cầu siêu (Ðầu vọng bái Tây phương Phật Tổ,....) hầu cho vong hồn hồi dương đặng rồi thì tụng tiếp bài Kinh Khi Ðã Chết Rồi (Ba mươi sáu cõi Thiên Tào,...) đặng vong hồn hưởng phép siêu thăng tịnh độ.

    Phải tụng xen kẽ như vậy cho đủ 3 lần. Khi dứt, niệm Câu Chú của Thầy 3 lần."

    Câu 1-2: Ðầu vọng bái Tây Phương Phật Tổ, A-Di-Ðà Phật độ chúng dân.

    GIẢI NGHĨA

    Ðầu vọng bái: Ðầu là cái đầu, vọng là trông ngóng, bái là lạy. Ðầu vọng bái là cúi đầu cầu khẩn lạy xuống.

    Tây Phương: Hướng Tây, chỉ cõi Cực Lạc Thế Giới ở về hướng Tây.

    Phật Tổ: Ðức Phật Thích Ca sáng lập Phật giáo và làm Tổ Sư Phật giáo, nên gọi Ðức Thích Ca là Phật Tổ.

    A-Di-Ðà Phật: Phiên âm từ tiếng Phạn: AMITABHA, dịch là Vô Lượng Quang Phật hay Vô Lượng Thọ Phật. Trong thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật A-Di-Ðà làm Chưởng giáo Cực Lạc Thế Giới. Nay là thời Tam Kỳ Phổ Độ, Ngài giao quyền lại cho Ðức Di-Lạc Vương Phật làm Chưởng giáo Cực Lạc Thế Giới, và Ðức A-Di-Ðà vào ngự nơi Lôi Âm Tự.

    Ðộ: Cứu giúp.

    Chúng dân: Dân chúng, chỉ chung nhơn sanh hay nhơn loại.

    Câu 1-2: Cúi đầu cầu khẩn lạy Ðức Phật Tổ và Ðức Phật A-Di-Ðà ở cõi Cực Lạc Thế Giới, xin cứu giúp nhơn sanh.

    Câu 3-4: Quan Thế Âm lân mẫn ân cần, Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc.

    GIẢI NGHĨA

    Quan Thế Âm: Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Phật Bà Quan Âm, Quan Âm Như Lai, Quán Thế Âm Phật.

    Ðối với Phật giáo Tây Tạng, Quán Thế Âm Phật là một vị Phật Nam, hộ trợ xứ Tây Tạng. Dân chúng Tây Tạng đều tin rằng, Ngài chuyển hóa vào thân Ðức Vua Ðạt Lai Lạt Ma, cai trị xứ Tây Tạng, nên họ xem Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là vị Phật Sống của họ. Ðức Quan Thế Âm có một hiện thân gồm 11 cái mặt, 1000 cánh tay, 1000 con mắt và có 108 hồng danh.

    Ở nước Trung Hoa và Việt Nam, Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Phật Nữ, do 2 truyện tích: Quan Âm Thị Kính và Công Chúa Diệu Thiện.

    Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát đã đắc quả Phật, nhưng Ngài đại nguyện xuống cõi Ta Bà cứu khổ cứu nạn chúng sanh, nên Ngài vẫn mang danh Bồ Tát. Bất cứ hạng nào trong chúng sanh, khi bị quá sức đau khổ, hay bị lâm nguy tánh mạng, như gặp phải nạn lửa cháy, chìm tàu, oan ức tù đày, ... , nếu thành tâm niệm danh hiệu cầu cứu Ngài, hoặc tụng bài Kinh Cứu Khổ, thì Ngài liền hiện thân tới cứu giúp.

    Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát vâng lịnh Ðức Chí Tôn làm Ðệ nhị Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Phật giáo, nêu cao gương từ bi bác ái tế độ của Phật.

    Lân mẫn: Lân là thương xót, mẫn là lo lắng. Lân mẫn là thương xót và lo lắng giúp đỡ.

    Ân cần: Săn sóc đầy đủ với lòng thương mến.

    Vớt: Cứu vớt.

    Lê thứ: Dân đen, dân chúng nghèo khổ. Lê là màu đen, thứ là nhiều.

    Khổ trần: Những nỗi đau khổ nơi cõi trần.

    Ðọa lạc: Phạt rơi xuống chỗ thấp kém, tối tăm, khổ sở. Ðọa là bị phạt xuống chỗ tối tăm khổ sở, lạc là rơi rụng.

    Câu 3-4: Cúi đầu cầu khẩn lạy Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát, xin thương xót, lo lắng ân cần cứu vớt dân chúng nghèo khổ đang bị đày đọa khổ sở nơi cõi trần.

    Câu 5-6: Ðại Thánh Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Bố từ bi tế bạt vong hồn.

    GIẢI NGHĨA

    Ðại Thánh: Bực Thánh lớn.

    Ðịa Tạng Vương Bồ Tát: Phật hiệu nầy có ý nghĩa như sau: Ðịa là đất, Tạng là chứa, đất chứa và chở muôn vật, vì Ngài có lập nguyện độ vô số chúng sanh ở hằng hà sa số thế giới, không một chúng sanh nào ra khỏi tự tâm của Ngài. Ngài lại còn Ðại nguyện: Ðịa ngục mà còn chúng sanh thì Ngài chưa chịu thành Phật.

    Do lời Ðại nguyện nầy, Ðức Chí Tôn phong Ngài làm U Minh Giáo chủ (hay Phong Ðô Ðại Ðế), cai quản cõi U Minh Ðịa phủ (cũng gọi là cõi Phong Ðô). Thời Tam Kỳ Phổ Độ, Ðức Chí Tôn đại khai ân xá, giải tán Ðịa ngục, phóng thích các tội hồn, cho đi đầu thai trả quả. Ðức Chí Tôn lập ra một cõi mới là cõi Âm Quang để các linh hồn tội lỗi đến đó xét mình và học Ðạo, nhận biết lỗi lầm của mình mà ăn năn sám hối, cầu khẩn Ðức Chí Tôn cứu rỗi. Do đó, Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát trở thành Giáo chủ cõi Âm Quang, giáo hóa các Nam tội hồn; còn các Nữ tội hồn thì có Thất Nương Diêu Trì Cung đến giáo hóa.

    Bố: Bày ra, cho.

    Từ bi: Lòng thương yêu chúng sanh và lúc nào cũng muốn giúp chúng sanh thoát khổ.

    Tế: Giúp đỡ.

    Bạt: Nhảy qua, vượt qua.

    Vong hồn: Linh hồn người chết.

    Câu 5-6: Ðức Ðại Thánh Ðịa Tạng Vương Bồ Tát mở lòng từ bi cứu giúp các vong hồn vượt qua biển khổ.

    Câu 7-8: Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên Tôn, Miền Âm cảnh ngục môn khai giải.

    GIẢI NGHĨA

    Khổ nàn: Khổ nạn, tai nạn khổ sở.

    Miền Âm cảnh: Cõi Âm phủ, cõi Ðịa ngục.

    Ngục môn: Cửa ngục.

    Giải: Cởi bỏ.

    Câu 7-8: Xin Ðức Thái Ất Thiên Tôn cứu giúp các tai nạn khổ sở, xin khai mở và bỏ đi các cửa ngục nơi cõi Âm phủ.

    Câu 9-10: Ơn Ðông Nhạc Ðế Quân quảng đại, Ðộ kẻ lành chế cải tai ương.

    GIẢI NGHĨA

    Ðông Nhạc Ðế Quân: Vị Thần làm đầu Ngũ Nhạc, cai trị phần hồn của nhơn loại. Tương truyền, ai mới thác xuống, linh hồn phải đến cho Thần Ðông Nhạc tra xét tội phước, rồi đến lúc đi đầu thai, cũng phải đến cho Thần Ðông Nhạc liệu định đường luân hồi.

    Theo truyện Phong Thần, 5 vị Thần Ngũ Nhạc chia ra ở trên 5 hòn núi theo 4 hướng: Ðông, Tây, Nam, Bắc và ở Trung ương, kể ra:

    Hoàng Phi Hổ: Ðông Nhạc Thái Sơn, Tề Thiên Nhân Thánh Ðại Ðế, làm đầu Ngũ Nhạc.
    Sùng Hắc Hổ: Nam Nhạc Hành Sơn, Tư Thiên Chiêu Thánh Ðại Ðế.
    Thôi Anh: Bắc Nhạc Hằng Sơn, An Thiên Huyền Thánh Ðại Ðế.
    Tưởng Hùng: Tây Nhạc Hoa Sơn, Kim Thiên Thư Thánh Ðại Ðế.
    Văn Sính: Trung Nhạc Tung Sơn, Trung Thiên Sùng Thánh Ðại Ðế.

    Năm vị Thần Ngũ Nhạc có bổn phận xem xét họa phước cho dân.

    Quảng đại: Lòng dạ bao la rộng rãi.

    Ðộ: Cứu giúp.

    Chế cải: Sửa đổi cái cũ để làm ra cái mới.

    Tai ương: Ðiều hại lớn. Tai là điều hại lớn, ương là xấu.

    Câu 9-10: Ðông Nhạc Ðế Quân có lòng rộng rãi, ban ơn cứu giúp người lành và sửa đổi cho bớt tai ương.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1936, 68, 74, 75: ...... quảng đại.
    Ðộ kẻ lành .....
    * Kinh Nhựt Tụng Minh Lý Ðạo 1973: ...... khoan đại.
    Hộ kẻ lành .....
    Khoan đại đồng nghĩa Quảng đại.
    Ðộ
    là cứu giúp. Hộ là che chở, giữ gìn.

    Xét trên ý nghĩa của câu kinh 10, dùng chữ: "Hộ kẻ lành" thì đúng hơn là "Ðộ kẻ lành", bởi vì người lành rồi thì không cần độ nữa, mà chỉ cần hộ trì cho họ được lành mãi. Còn độ là độ kẻ chưa lành, độ kẻ tội lỗi, cho họ trở nên lành.

    Ðức Chí Tôn có nói rằng: "Thầy lại nói, buổi lập Thánh đạo, Thầy đến để độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi, đâu đến nhọc công Thầy." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 44)

    Câu 11-12: Chốn Dạ đài Thập Ðiện Từ Vương, Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết.

    GIẢI NGHĨA

    Dạ đài: Lầu đài ban đêm, tức là lầu đài cung điện nơi cõi Âm phủ. Dạ là đêm thuộc về Âm, đài là lầu đài.

    Thập Ðiện Từ Vương: 10 vị vua nhơn từ cai quản 10 cửa ngục nơi cõi Âm phủ, thường gọi là Thập Ðiện Diêm Vương, dưới quyền của Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.

    Thập Ðiện Diêm Vương gồm 10 vị, kể ra sau đây :

    Nhứt Ðiện: Tần Quảng Vương cầm sổ sống chết.
    Nhị Ðiện: Sở Giang Vương coi Ðẳng Huợt Ðại Ðịa ngục.
    Tam Ðiện: Tống Ðế Vương coi Hắc Thắng Ðại Ðịa ngục.
    Tứ Ðiện: Ngũ Quan Vương coi Chúng Hiệp Ðại Ðịa ngục.
    Ngũ Ðiện: Diêm La Vương coi Kiếu Hoán Ðại Ðịa ngục.
    Lục Ðiện: Biện Thành Vương coi Ðại Kiếu Hoán Ðại Ðịa ngục.
    Thất Ðiện: Thái Sơn Vương coi Nhiệt Não Ðại Ðịa ngục.
    Bát Ðiện: Bình Ðẳng Vương coi Ðại Nhiệt Não Ðại Ðịa ngục.
    Cửu Ðiện: Ðô thị Vương coi A-Tỳ Ðại Ðịa ngục.
    Thập Ðiện: Chuyển Luân Vương coi việc cho đi đầu thai.

    Câu 11-12: Nơi cõi Âm phủ, Thập Ðiện Diêm Vương nhơn từ, thấy tội nhơn bị hình phạt khổ sở thì đem lòng thương xót thảm thiết.

    Câu 13: Giảm hình phạt, bớt đường luy tiết.

    GIẢI NGHĨA

    Luy tiết: Luy là sợi dây dùng để trói kẻ có tội; tiết là sợi dây dùng để trói. Luy tiết là trói buộc kẻ có tội, ý nói cảnh giam cầm tù tội.

    Câu 13: Làm cho giảm bớt những hình phạt và giảm bớt việc giam cầm tù tội.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 74, 75: ... ly tiết.
    * Kinh Nhựt Tụng Minh Lý Ðạo năm 1973: ... luy tiết.

    Từ ngữ "ly tiết" không có nghĩa nào thích hợp với câu kinh nầy. Vả lại, người bình dân đọc 2 chữ LY và LUY như cùng một âm. Do đó, câu kinh nầy phải viết là LUY TIẾT mới đúng.

    Câu 14: Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên.

    GIẢI NGHĨA

    Xá: Tha cho, xá tội.

    Linh quang: Ðiểm Linh quang do Ðức Chí Tôn ban cho mỗi người để làm linh hồn.

    Xá linh quang: Tha thứ tội lỗi cho các linh hồn.

    Tiêu diệt: Làm cho mất hẳn đi.

    Tiền khiên: Những lỗi lầm đã gây ra trong kiếp sống trước. Khiên là lỗi lầm, tiền là trước.

    Câu 14: Tha thứ tội lỗi cho các linh hồn và tiêu diệt hết các lỗi lầm đã gây ra trong kiếp trước.

    Câu 15-16: Ðặng nhẹ nhàng thẳng đến Cung Tiên, Nơi phước địa ở yên tu luyện.

    GIẢI NGHĨA

    Cung Tiên: Chỉ cõi Tiên, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Phước địa: Ðất phước, vùng đất lành và an vui.

    Tu luyện: Tu là sửa đổi đức tánh cho hoàn toàn, bỏ nhơn dục tìm đường Thiên lý; luyện là rèn, trau giồi cho sáng suốt. Tu mà không luyện thì chẳng khác chi một cục sắt, không rèn giũa thì làm sao trở thành món đồ dùng hữu ích.

    Câu 15-16: Linh hồn được nhẹ nhàng bay thẳng lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, và ở yên nơi đất phước để lo tu luyện.

    Câu 17-18: Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện, Hộ thương sanh u hiển khương ninh.

    GIẢI NGHĨA

    Sở nguyện: Ðiều quan trọng mà mình mong mỏi trong lòng.

    Hộ: Che chở giữ gìn.

    Thương sanh: Những người sống thấp kém nghèo khổ, chỉ chung nhơn sanh. Thương là màu xanh, sanh là sống.

    U hiển: U là tối tăm, chỉ cõi Âm phủ; Hiển là hiện ra rõ ràng, chỉ cõi Dương gian. U hiển là chỉ cõi Âm phủ của người chết và cõi Dương gian của người sống.

    Khương ninh: Mạnh khỏe an ổn. Khương là mạnh khỏe, ninh là an ổn.

    Câu 17-18: Xin Ðức Chí Tôn và chư Phật chứng điều sở nguyện và xin gìn giữ che chở nhơn sanh ở cõi Âm cũng như ở cõi Dương được mạnh khỏe và an ổn.

  • Kinh Tận độ Vong linh: Kinh Ðưa Linh Cữu

    Kinh Ðưa Linh Cữu
    (Giọng Nam ai)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,
    Giữ Chơn hồn xa lánh xác trần.
    Cầu xin các vị Thần linh trấn nhậm ở địa phương nầy giúp lịnh gìn giữ Chơn thần của người chết lánh xa xác phàm.
    3.
    4.
    Nam mô Ðịa Tạng thi ân,
    Ðưa đường Thiên cảnh, lánh gần Phong đô.
    Xin cầu nguyện với Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát ban ơn đưa linh hồn người chết lên đường về cõi Thiêng liêng Hằng sống, lánh xa không cho đến gần cõi Âm quang.
    5.
    6.
    Nam mô Tam Trấn Hư Vô,
    Oai Nghiêm độ rỗi Cao đồ qui nguyên.
    Xin cầu nguyện với Tam Trấn Oai Nghiêm nơi cõi Hư Vô mầu nhiệm độ rỗi linh hồn của người tín đồ Cao Ðài được trở về với Ðức Chí Tôn.
    7.
    8.
    Nam mô Tam giáo diệu huyền,
    Tuyệt luân Bát Nhã đưa thuyền độ vong.
    Xin cầu nguyện với Ba Ðấng Giáo Chủ Tam giáo huyền diệu, xin đem chiếc thuyền Bát Nhã cứu giúp các vong hồn thoát qua biển khổ, dứt khỏi luân hồi.
    9.
    10.
    Nam mô Bạch Ngọc Công Ðồng,
    Thần Tiên Thánh Phật mở vòng trái oan.
    Xin cầu nguyện với các Ðấng Thần Thánh Tiên Phật trong Hội Công Ðồng nơi Bạch Ngọc Kinh, xin cởi mở ra cho hết vòng oan trái.
    11.
    12.
    Nam mô Thượng Ðế Ngọc Hoàng,
    Mở cơ tận độ nhẹ nhàng chơn linh.
    Xin cầu nguyện với Ðức Chí Tôn mở ra cơ quan Tận độ nhơn sanh để linh hồn người chết được nhẹ nhàng siêu thăng.
    13.
    14.
    Cửa Cực Lạc thinh thinh rộng mở,
    Rước vong hồn lui trở ngôi xưa.
    Cửa Cực Lạc Thế Giới mở rộng thênh thang để rước các vong hồn trở lại ngôi vị cũ.
    15.
    16.
    Tòa sen báu vật xin đưa,
    Chơn linh an ngự cho vừa quả duyên.
    Xin đưa Chơn linh đến an ngự trên tòa sen quí báu cho tương xứng với công đức tu hành.

    (Niệm 3 lần Câu Chú của Thầy).

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Ðưa Linh Cữu do Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ ban cho để đồng nhi tụng trong suốt thời gian đưa linh cữu từ nơi phát hành đến nơi chôn cất.

    Linh cữu: Linh là linh hồn người chết, cữu là cái áo quan. Linh cữu là cái áo quan trong đó đã có liệm thi hài của một linh hồn vừa bỏ xác.

    Theo cách gọi thông thường, khi đưa đi chôn thì gọi là Linh cữu, khi còn đặt trong nhà để tế lễ thì gọi là Quan tài.

    Câu 1-2: Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh, Giữ Chơn hồn xa lánh xác trần.

    GIẢI NGHĨA

    Thần linh: Các vị Thần thiêng liêng.

    Các Trấn Thần linh: Các vị Thần thiêng liêng trấn nhậm ở các địa phương như: Thần Hoàng Bổn Cảnh, Thổ Thần, Thổ Ðịa, Sơn Thần .

    Trợ lịnh: Trợ là giúp đỡ. Trợ lịnh là giúp đỡ thi hành các mệnh lệnh của cấp trên cho được hiệu quả.

    Chơn hồn: Ở đây có nghĩa là Chơn thần, xác thân thiêng liêng, Nhị xác thân.

    Xa lánh: Tránh đi chỗ khác cho xa chỗ đó.

    Xác trần: Thể xác phàm, Ðệ nhứt xác thân.

    Câu 1-2: Cầu xin các vị Thần linh trấn nhậm ở địa phương nầy giúp lịnh gìn giữ Chơn thần của người chết lánh xa xác phàm.

    Câu 3-4: Nam mô Ðịa Tạng thi ân, Ðưa đường Thiên cảnh, lánh gần Phong đô.

    GIẢI NGHĨA

    Nam mô: do tiếng Phạn phiên âm ra, có nghĩa là: Qui y, qui mạng, chí tâm hướng, tức là quyết chí vâng theo lời Phật dạy, nguyện hiến trọn đời mình cho Ðạo pháp. Về sau, từ ngữ Nam mô thường dùng làm tiếng khởi đầu cho một câu cầu nguyện.

    Ðịa Tạng: Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Giáo chủ cõi Âm quang. Khi xưa, thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ngài là Giáo chủ cõi U Minh hay cõi Phong Ðô, nên gọi Ngài là U Minh Giáo chủ hay Phong Ðô Ðại Ðế.

    Thi ân: Làm ơn cho người.

    Thiên cảnh: Cõi Trời, cõi Thiêng liêng Hằng sống.

    Lánh gần: Lánh đi chỗ khác, đừng lại gần.

    Phong Ðô: Ở đây chỉ cõi Âm quang do Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát làm Giáo chủ.

    Câu 3-4: Xin cầu nguyện với Ðức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát ban ơn đưa linh hồn người chết lên đường về cõi Thiêng liêng Hằng sống, lánh xa không cho đến gần cõi Âm quang.

    Câu 5-6: Nam mô Tam Trấn Hư Vô, Oai Nghiêm độ rỗi Cao đồ qui nguyên.

    GIẢI NGHĨA

    Tam Trấn: Thường gọi là Tam Trấn Oai Nghiêm, đó là 3 vị cầm quyền Tam giáo trong thời Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Tam Trấn Oai Nghiêm gồm:

    Nhứt Trấn Oai Nghiêm: Ðức Ðại Tiên Trưởng Lý Thái Bạch, cầm quyền Tiên giáo, kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

    Nhị Trấn Oai Nghiêm: Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát, cầm quyền Phật giáo.

    Tam Trấn Oai Nghiêm: Ðức Quan Thánh Ðế Quân, cầm quyền Nho giáo.

    Hư Vô: Hư là trống không, vô là không. Hư Vô là hoàn toàn trống không, nhưng trong không mà có tất cả. Hư vô là cảnh giới vô cùng mầu nhiệm mà chẳng ai rõ thấu, vì cảnh giới ấy vắng lặng trống không mà lại sanh ra các Pháp.

    Oai Nghiêm: Trang nghiêm khiến người khác nể sợ.

    Ðộ rỗi: Ðộ là cứu giúp, rỗi là cứu vớt khỏi những ràng buộc tội lỗi. Ðộ rỗi là cứu giúp thoát khỏi những ràng buộc tội lỗi để được siêu thăng.

    Cao đồ: Môn đồ của Ðấng Cao Ðài, tức là tín đồ của Ðạo Cao Ðài.

    Qui nguyên: Qui là trở về, nguyên là cái gốc khởi sanh ra, đó là Thái Cực, tức là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Qui nguyên là trở về với Ðức Chí Tôn.

    Câu 5-6: Xin cầu nguyện với Tam Trấn Oai Nghiêm nơi cõi Hư Vô mầu nhiệm độ rỗi linh hồn của người tín đồ Cao Ðài được trở về với Ðức Chí Tôn.

    Câu 7-8: Nam mô Tam giáo diệu huyền, Tuyệt luân Bát Nhã đưa thuyền độ vong.

    GIẢI NGHĨA

    Tam giáo: Ba nền tôn giáo lớn ở Á Ðông: Phật giáo (Thích giáo), Tiên giáo (Lão giáo), Nho giáo (Khổng giáo).

    Diệu huyền: Huyền diệu, huyền là sâu kín, diệu là khéo léo. Huyền diệu là sâu kín khéo léo mà trí phàm không thể biết rõ được.

    Tuyệt luân: Tuyệt là dứt, luân là sự luân hồi. Tuyệt luân là dứt luân hồi, tức là không còn luân hồi nữa.

    Bát Nhã thuyền: Bát Nhã là trí huệ, tức là sự hiểu biết đạo lý sáng suốt. Bát Nhã thuyền là chiếc thuyền trí huệ đưa các chơn hồn vượt qua biển khổ đến bờ giải thoát.

    Ðộ vong: Cứu giúp linh hồn người chết.

    Câu 7-8: Xin cầu nguyện với Ba Ðấng Giáo Chủ Tam giáo huyền diệu, xin đem chiếc thuyền Bát Nhã cứu giúp các vong hồn thoát qua biển khổ, dứt khỏi luân hồi.

    Câu 9-10: Nam mô Bạch Ngọc Công Ðồng, Thần Tiên Thánh Phật mở vòng trái oan.

    GIẢI NGHĨA

    Bạch Ngọc: Bạch Ngọc Kinh, tòa lâu đài làm bằng ngọc trắng, là nơi thường ngự của Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

    Công Ðồng: Công là chung, đồng là cùng nhau.

    Bạch Ngọc Công Ðồng: là một Ðại Hội chư Thần Thánh Tiên Phật tại Bạch Ngọc Kinh để quyết nghị các công việc chung có tính cách quan trọng, dưới quyền chủ tọa của Ðức Chí Tôn.

    Trái oan: Oan là thù giận, trái là món nợ. Trái oan là món nợ oan nghiệt. Kiếp trước, mình làm cho người ta thù giận mình, tức là mình tạo ra oan trái, nay mình phải đền trả món nợ đó.

    Câu 9-10: Xin cầu nguyện với các Ðấng Thần Thánh Tiên Phật trong Hội Công Ðồng nơi Bạch Ngọc Kinh, xin cởi mở ra cho hết vòng oan trái.

    Câu 11-12: Nam mô Thượng Ðế Ngọc Hoàng, Mở cơ tận độ nhẹ nhàng chơn linh.

    GIẢI NGHĨA

    Tận độ: Tận là hết, độ là cứu giúp. Tận độ là cứu giúp toàn cả chúng sanh, không chừa một người nào cả.

    Cơ tận độ: Cơ quan có nhiệm vụ tận độ chúng sanh. Cơ quan nầy là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ tức là Ðạo Cao Ðài.

    Trong Bài Tựa quyển Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo, Hội Thánh có viết như sau:

    "Ðức Quyền Giáo Tông (khi còn tại thế) và Ðức Hộ Pháp, trót 10 năm trường, nghĩa là từ ngày mở Ðạo, đã nhiều phen dâng sớ cho Ðại Từ Phụ và các Ðấng Thiêng liêng đặng xin Kinh Tận độ, nhưng mà Chí Tôn cùng chư Thần Thánh Tiên Phật chưa định ban ân cho toàn sanh chúng.

    Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới ngày mùng 4 tháng 8 năm Ất Hợi (dl 21 đến 31-8-1935) mới giáng cơ ban cho Tân Kinh. Ấy là một giọt nước Cam Lồ của Ðức Từ Bi rưới chan đặng gội nhuần cho các đẳng linh hồn của toàn thế giới.

    Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: Ðã trải qua 10 năm, Chí Tôn mới mở Cơ Tận độ. Cơ Tận độ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân Kinh nầy mà thôi."

    Câu 11-12: Xin cầu nguyện với Ðức Chí Tôn mở ra cơ quan Tận độ nhơn sanh để linh hồn người chết được nhẹ nhàng siêu thăng.

    Câu 13-14: Cửa Cực Lạc thinh thinh rộng mở, Rước vong hồn lui trở ngôi xưa.

    GIẢI NGHĨA

    Cửa Cực Lạc: Cửa đi vào Cực Lạc Thế giới.

    Thinh thinh: Rộng rãi thênh thang.

    Lui trở: Lui bước trở về.

    Ngôi xưa: Ngôi vị cũ nơi cõi Thiêng liêng.

    Câu 13-14: Cửa Cực Lạc Thế Giới mở rộng thênh thang để rước các vong hồn trở lại ngôi vị cũ.

    Câu 15-16: Tòa sen báu vật xin đưa, Chơn linh an ngự cho vừa quả duyên.

    GIẢI NGHĨA

    Tòa sen: Ngôi vị của Phật hay Bồ Tát. Báu vật: Vật quí báu.

    Chơn linh: Linh hồn.

    An ngự: An là yên ổn, ngự là ngồi lên một cách trang trọng. An ngự là ngồi lên một cách trang trọng và an ổn.

    Cho vừa: Cho tương xứng.

    Quả duyên: Quả là cái kết quả, duyên là cái sức bổ trợ cho cái Nhân thành cái Quả. Quả duyên là cái kết quả do sự bổ trợ của cái duyên mà đạt được, tức là cái phẩm vị đạt được do công đức tu hành.

    Câu 15-16: Xin đưa Chơn linh đến an ngự trên tòa sen quí báu cho tương xứng với công đức tu hành.

  • Kinh Tận độ Vong linh: Kinh Hạ Huyệt

    Kinh Hạ Huyệt
    (Giọng Nam ai)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn.
    Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai.
    Khi thức tỉnh lại rồi, thấy cuộc đời như là một giấc chiêm bao. Cái âm vang của trường náo nhiệt đua chen danh lợi cũng hết thoảng bên tai.
    3.
    4.
    Giải thi lánh chốn đọa đày,
    Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn khôn.
    Cởi bỏ thể xác để Linh hồn và Chơn thần bay lên lánh khỏi cõi trần đày đọa. Khi Linh hồn và Chơn thần trong sạch thì mới được nhẹ nhàng, thoát ra ngoài cõi trần, đi vào Càn Khôn Vũ Trụ.
    5. Phép Giải Oan độ hồn khỏi tội. Phép Giải oan cứu giúp các linh hồn thoát khỏi các tội tình đã gây ra trong nhiều kiếp trước.
    6. Phướn Tiêu Diêu nắm mối trường sanh. Cây Phướn Tiêu Diêu của Lục Nương dẫn dắt các chơn hồn lên cõi Thiêng liêng Hằng sống.
    7.
    8.
    Ơn nhờ hồng phước Chí Linh,
    Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.
    Nhờ hưởng được ơn phước của Ðức Chí Tôn, nên Chơn hồn được ung dung thơ thới nơi cõi Phật, và an nhàn nơi cõi Tiên.
    9. Nhờ Hậu Thổ xương tàn gìn giữ. Xin nhờ thần Hậu Thổ gìn giữ các mảnh xương tàn của người chết gởi tại nơi đây.
    10. Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên. Ơn nghĩa của Ðức Chí Tôn tha thứ các lỗi lầm đã gây ra trong các kiếp trước.
    11.
    12.
    Ðưa tay vịn phép diệu huyền,
    Ngọc Hư lập vị, Cửu tuyền lánh chơn.
    Dựa vào các Phép Bí tích huyền diệu mà lên Ngọc Hư Cung lập phẩm vị cho mình, và bước đi lánh xa cõi Âm phủ.
    13. Ngó Cực Lạc theo huờn Xá lợi. Nhìn về phía Cực Lạc Thế Giới để theo về với Phật.
    14. Cửu Trùng Thiên mở lối qui nguyên. Chín từng Trời mở ra một con đường để các Chơn hồn trở về với Ðức Chí Tôn.
    15. Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên. Cốt cách sáng ngời như Phật, có mối dây ràng buộc với Tiên.
    16. Nước Cam lồ rửa sạch thuyền độ nhân. Nước Cam lồ rửa sạch tiền khiên nghiệp chướng, và chiếc thuyền Bát Nhã cứu độ người đưa qua biển khổ.

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Hạ Huyệt do Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát (Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai) giáng cơ ban cho.

    Khi đưa linh cữu ra tới huyệt thì vị chứng đàn và đồng nhi đứng trước đầu huyệt, tụng Kinh Hạ Huyệt 3 hiệp, mỗi hiệp cúi đầu, mãn hiệp thứ ba liền tụng tiếp 3 biến Vãng Sanh Thần Chú. Hễ dứt thì niệm Câu Chú của Thầy 3 lần.

    Hạ Huyệt: Hạ là đem xuống, huyệt là cái lỗ đào xuống đất. Hạ huyệt là đem quan tài đặt xuống cái huyệt đã đào sẵn dưới đất để chôn.

    Kinh Hạ Huyệt là bài kinh để đồng nhi tụng trước khi đem quan tài đặt xuống huyệt để chôn.

    Câu 1-2: Thức giấc mộng huỳnh lương vừa mãn. Tiếng phồn ba hết thoáng bên tai.

    GIẢI NGHĨA

    Huỳnh lương: Huỳnh là màu vàng, lương là bắp. Huỳnh lương là bắp vàng, một lọai trong ngũ cốc dùng để nấu ăn.

    Giấc mộng huỳnh lương: Giấc chiêm bao kéo dài trong thời gian nấu chín nồi bắp vàng.

    ÐIỂN TÍCH: Chung Ly Vân Phòng đời nhà Hớn, nên thường gọi là Hớn Chung Ly, là một vị Ðại Tiên, thấy Ông Lữ động Tân (thường gọi Lữ đồng Tân) có căn lành nên muốn độ họ Lữ đi tu, liền đến huyện Hàm Ðang gặp họ Lữ nói rằng:

    - Ta là Chung Ly Vân Phòng tu ở núi Triều Hạc, Ông có muốn đi chơi với ta không?

    Lữ đồng Tân có vẻ lưỡng lự vì muốn đi thi Tiến sĩ để dương danh với đời. Chung Ly biết vậy, liền mời Lữ đồng Tân đến bên nồi bắp vàng đang nấu, ngồi chơi, rồi đưa cho một cái gối bảo nằm xuống nghỉ, còn mình thì tiếp tục đun nồi bắp vàng. Ðồng Tân kê đầu vào gối nằm xuống giây lát thì chiêm bao thấy mình vác lều chõng đi thi, ngang qua một nhà giàu nọ, gặp một người con gái rất đẹp thì ướm lời. Nàng nọ nói rằng: " Nếu chàng đi thi đậu Trạng Nguyên thì thiếp nguyện nâng khăn sửa trấp." Lữ đồng Tân vào khoa thi, đậu được Trạng Nguyên, về cưới nàng ấy, sau lại cưới thêm hầu thiếp nữa, được vua bổ làm quan Gián Nghị, lần lần được thăng lên đến chức Tể Tướng, giàu sang tột bực, con cháu đầy nhà. Chẳng may, sau đó bị gian thần hãm hại, vu oan giá họa, vua truyền bắt tội, tịch thu hết gia sản sự nghiệp, rồi đày ra chốn Lãng Biển, cực khổ vô cùng. Kế giựt mình thức dậy, ngơ ngẩn tâm thần.

    Chung Ly Vân Phòng ngồi kế bên bèn cười lớn, ngâm hai câu thơ:

    Nồi bắp hãy còn ngòi,
    Chiêm bao đà thấy cháu.

    Lữ đồng Tân lấy làm lạ hỏi rằng:

    - Thầy biết sự chiêm bao của tôi sao?

    - Chiêm bao 50 năm, công việc cả muôn, thiệt không đầy một lát, đặng chẳng khá mừng, mất không nên thảm, hết vinh tới nhục là lẽ thường.

    Lữ đồng Tân nghe Hớn Chung Ly nói thế thì tỉnh ngộ, ngẫm nghĩ lại mà chán ngán cuộc đời, liền từ bỏ mộng công danh, cầu xin Hớn Chung Ly truyền đạo.

    Do sự tích nầy, người ta thường dùng các thành ngữ: Giấc huỳnh lương, Huỳnh lương mộng, Giấc Hàm Ðang, là để chỉ giấc mộng của Lữ đồng Tân, ý nói rằng: Cuộc vinh hoa phú quí ở đời, nên xem nó là phù du mộng ảo.

    Phồn ba: Phồn là nhiều; ba là cái hoa. Phồn ba, đồng nghĩa Phồn hoa, là chỉ nơi dân cư đông đúc, mua bán tấp nập, ngựa xe như nước, là trường náo nhiệt đua chen danh lợi.

    Thoáng: Thoảng qua, lướt qua một cách nhẹ nhàng trong thời gian rất ngắn, chỉ đủ để cảm nhận được.

    Câu 1-2: Khi thức tỉnh lại rồi, thấy cuộc đời như là một giấc chiêm bao. Cái âm vang của trường náo nhiệt đua chen danh lợi cũng hết thoảng bên tai.

    Câu 3-4: Giải thi lánh chốn đọa đày, Chơn linh trong sạch ra ngoài Càn khôn.

    GIẢI NGHĨA

    Giải thi: Giải là cởi bỏ, thi là thi hài thể xác. Giải thi là cởi bỏ thể xác, tức là khi thể xác chết, Chơn thần và Linh hồn xuất ra khỏi thể xác, đi lên cõi Thiêng liêng.

    Chốn đọa đày: Chỉ cõi trần, vì cõi trần là cõi đọa.

    Chơn linh trong sạch: Chơn linh trong sạch thì Chơn thần phải trong sạch. Muốn cho Chơn thần trong sạch thì phải giữ cho Thể xác trong sạch. Muốn cho Thể xác trong sạch thì phải ăn chay trường, cúng kiếng thường và giữ tư tưởng cho thanh cao. Một Chơn linh trong sạch khi ở trong một Chơn thần trong sạch; một Chơn thần trong sạch khi ở trong một Thể xác trong sạch. Chơn thần trong sạch thì mới nhẹ nhàng, mới bay lên tới cõi Thiêng liêng Hằng sống.

    Càn Khôn: Trời Ðất, thường nói Càn Khôn Vũ Trụ.

    Ra ngoài Càn khôn: Bay thoát ra ngoài cõi trần, đi vào Càn Khôn Vũ Trụ.

    Câu 3-4: Cởi bỏ thể xác để Linh hồn và Chơn thần bay lên lánh khỏi cõi trần đày đọa. Khi Linh hồn và Chơn thần trong sạch thì mới được nhẹ nhàng, thoát ra ngoài cõi trần, đi vào Càn Khôn Vũ Trụ.

    Câu 5: Phép Giải Oan độ hồn khỏi tội.

    GIẢI NGHĨA

    Phép Giải oan: là một phép Bí tích rất huyền diệu của Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn ban cho nhơn loại trong kỳ Ðại Ân Xá nầy, để cởi bỏ hết các oan nghiệt đã gây ra từ nhiều kiếp trước, nhờ đó nhơn sanh dễ tiến bước trên đường tu hành, theo đúng với Cơ Tận độ của Ðức Chí Tôn.

    Câu 5: Phép Giải oan cứu giúp các linh hồn thoát khỏi các tội tình đã gây ra trong nhiều kiếp trước.

    Câu 6: Phướn Tiêu Diêu nắm mối trường sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Phướn Tiêu Diêu: Cây phướn của Lục Nương cầm, cũng gọi là Phướn Truy Hồn, để gìn giữ và hướng dẫn Chơn hồn đi lên các từng Trời của Cửu Trùng Thiên.

    Trường sanh: Sống hoài, hằng sống, chỉ cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Câu 6: Cây Phướn Tiêu Diêu của Lục Nương dẫn dắt các chơn hồn lên cõi Thiêng liêng Hằng sống.

    Câu 7-8: Ơn nhờ hồng phước Chí Linh, Lôi Âm tự toại, Bồng Dinh hưởng nhàn.

    GIẢI NGHĨA

    Hồng phước: Hồng là to lớn, phước là điều may mắn tốt lành. Hồng phước là điều may mắn tốt lành lớn do Ðức Chí Tôn ban cho. (Chữ Hồng dùng để chỉ cái gì to lớn của Ðức Chí Tôn hay do Ðức Chí Tôn ban cho. Thí dụ: Hồng oai, Hồng từ, Hồng ân, Hồng phước.)

    Chí Linh: Rất thiêng liêng, chỉ Ðức Chí Tôn.

    Lôi Âm: Lôi Âm Tự, chùa Lôi Âm ở tại kinh đô của cõi Cực Lạc Thế Giới, nơi ngự của Ðức Phật Thích Ca và Ðức A-Di-Ðà Phật. Ở đây, Lôi Âm là chỉ cõi Cực Lạc Thế Giới, là nơi hoàn toàn sung sướng và an vui.

    Tự toại: Tự là chính mình, toại là thỏa lòng. Tự toại là lòng dạ thỏa thích, ung dung thơ thới.

    Bồng Dinh: Hai hòn đảo: Bồng Lai và Dinh Châu. Tương truyền trong biển Bột Hải nơi cõi Thiêng liêng có 3 hòn đảo tên là: Bồng Lai, Dinh Châu, Phương Trượng, đều có Tiên ở. Trên đảo Bồng Lai có núi Bồng Lai (cũng gọi là Bồng sơn) có 8 động đá là nơi ở của Bát Tiên. Bồng Dinh là chỉ cõi Tiên. Lôi Âm là chỉ cõi Phật.

    Câu 7-8: Nhờ hưởng được ơn phước của Ðức Chí Tôn, nên Chơn hồn được ung dung thơ thới nơi cõi Phật, và an nhàn nơi cõi Tiên.

    Câu 9: Nhờ Hậu Thổ xương tàn gìn giữ.

    GIẢI NGHĨA

    Hậu Thổ: Hậu là vua (theo nghĩa xưa), Thổ là đất. Hậu Thổ là vua Ðất, tức là vị Thần cai quản đất đai của một nước, làm đầu các vị Thổ Thần. Thổ Thần là vị Thần cai quản một vùng đất nhỏ.

    Xương tàn: Bộ xương còn lại sau khi xác chết thúi rã thành nước tan vào đất.

    Câu 9: Xin nhờ thần Hậu Thổ gìn giữ các mảnh xương tàn của người chết gởi tại nơi đây.

    Câu 10: Nghĩa Chí Tôn tha thứ tiền khiên.

    GIẢI NGHĨA

    Nghĩa Chí Tôn: Ơn nghĩa của Ðức Chí Tôn.

    Tiền khiên: Lỗi lầm đã gây ra trong các kiếp trước.

    Câu 10: Ơn nghĩa của Ðức Chí Tôn tha thứ các lỗi lầm đã gây ra trong các kiếp trước.

    Câu 11-12: Ðưa tay vịn phép diệu huyền, Ngọc Hư lập vị, Cửu tuyền lánh chơn.

    GIẢI NGHĨA

    Phép diệu huyền: Phép Bí tích huyền diệu mà Ðức Chí Tôn đã ban cho như: Phép Giải oan, Phép Xác, Phép Ðoạn căn, Phép Ðộ thăng, vv.

    Vịn: Ðặt bàn tay tựa vào cho có thế vững, ý nói dựa vào.

    Vịn phép diệu huyền: Dựa vào các Phép Bí tích huyền diệu.

    Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung nơi cõi Thiêng liêng, là nơi họp Thiên triều của Ðức Chí Tôn Thượng Ðế. Hiệp Thiên Ðài là hình ảnh của Ngọc Hư Cung tại thế.

    Lập vị: Làm nên phẩm vị cho mình.

    Cửu tuyền: Tuyền là suối, Cửu tuyền là Chín suối, chỉ cõi Âm phủ. Tương truyền, cõi Âm phủ có 9 dòng suối.

    Lánh chơn: Bước đi lánh khỏi chỗ đó.

    Câu 11-12: Dựa vào các Phép Bí tích huyền diệu mà lên Ngọc Hư Cung lập phẩm vị cho mình, và bước đi lánh xa cõi Âm phủ.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1936: Ðưa tay dịnh phép.
    * Kinh Lễ in bên Pháp năm 1952: Ðưa tay định phép.
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975: Ðưa tay vịn phép.

    Câu 13: Ngó Cực Lạc theo huờn Xá lợi.

    GIẢI NGHĨA

    Ngó: Nhìn.

    Cực Lạc: Cực Lạc Thế Giới, cõi Phật.

    Huờn: do chữ Hoàn nói trại ra. Hoàn là một viên tròn, một cái hột. Thí dụ như: Hoàn thuốc.

    Xá lợi: Sau khi Ðức Phật Thích Ca tịch diệt, thể xác của Phật được hỏa thiêu. Trong mớ tro tàn còn lại có những hột tròn tròn chiếu sáng như ngọc, gọi là Ngọc Xá lợi. Các hột Xá lợi nầy được thu giữ cẩn thận, phân chia ra nhiều chỗ để thờ. Vị Tăng Thống của Phật giáo Tích Lan có đem qua tặng Tòa Thánh Tây Ninh một hột Ngọc Xá lợi nầy. Do đó, từ ngữ Huờn Xá lợi là chỉ Ðức Phật.

    Câu 13: Nhìn về phía Cực Lạc Thế Giới để theo về với Phật.

    Câu 14: Cửu Trùng Thiên mở lối qui nguyên.

    GIẢI NGHĨA

    Cửu Trùng Thiên: Chín từng Trời. Cửu là 9, Trùng là nhiều lớp chập chồng lên nhau, Thiên là Trời.

    Mở lối: Mở đường.

    Qui nguyên: Qui là trở về; Nguyên là cái gốc mà từ đó nó được sanh ra, gốc đó là Thái Cực tức là Ðức Chí Tôn Thượng Ðế. Qui nguyên là trở về với Ðức Chí Tôn.

    Câu 14: Chín từng Trời mở ra một con đường để các Chơn hồn trở về với Ðức Chí Tôn.

    Câu 15: Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên.

    GIẢI NGHĨA

    Rỡ ràng: Sáng ngời một cách đẹp đẽ.

    Phật cốt: Cốt cách như Phật.

    Tiên duyên: Có duyên với Tiên, tức là có mối dây ràng buộc với các vị Tiên.

    Câu 15: Cốt cách sáng ngời như Phật, có mối dây ràng buộc với Tiên.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh TÐ-TÐ- năm 1936: Rỡ ràng Phật cốt Tiên duyên.
    * Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974, 1975: Rõ ràng Phật cốt tiền duyên.
    Rõ ràng: Rất rõ, rất minh bạch.
    Tiền duyên: Có mối dây ràng buộc từ trước.

    Câu 16: Nước Cam lồ rửa sạch thuyền độ nhân.

    GIẢI NGHĨA

    Nước Cam lồ: Chữ Hán là Cam lồ thủy, Cam là ngọt, Lồ do chỡ Lộ đọc trại ra, Lộ là giọt sương. Cam lồ thủy tức là Cam lộ thủy là nước sương ngọt. Ðây là chất nước huyền diệu do Ðức Quan Âm Bồ Tát luyện thành, có vị ngọt, mùi thơm, công dụng rất linh diệu, giải trừ oan nghiệt, cải tử huờn sanh.

    Thuyền độ nhân: Chiếc thuyền Bát Nhã cứu độ người.

    Câu 16: Nước Cam lồ rửa sạch tiền khiên nghiệp chướng, và chiếc thuyền Bát Nhã cứu độ người đưa qua biển khổ.

  • Kinh Tận độ Vong linh: Vãng Sanh Thần Chú

    Vãng Sanh Thần Chú

    Nam-mô
    A-Di-Ðà Bà-Dạ,
    Ða-Tha-Già-Ða-Dạ,
    Ða-Ðiệt-Dạ-Tha:
    A-Di-Rị-Ðô-Bà-Tì,
    A-Di-Rị-Ða,
    Tất-Ðam-Bà-Tì,
    A-Di-Rị-Ða,
    Tì-Ca-Lan-Ðế,
    A-Di-Rị-Ða,
    Tì-Ca-Lan-Ða,
    Già-Di-Nị,
    Già-Già-Na,
    Chỉ-Ca-Ða-Lệ,
    Ta-Bà-Ha.

    (Tụng 3 lần rồi niệm Câu Chú của Thầy 3 lần).

    GIẢI NGHĨA

    Vãng sanh: Vãng là đã qua, ý nói chết, qua đời; Sanh là sanh ra và sống. Vãng sanh là chết ở thế giới ô trược nầy để linh hồn chuyển sanh qua một thế giới khác cao hơn, thanh khiết hơn, tốt đẹp hơn, an vui sung sướng hơn.

    Thần chú: Thần là thiêng liêng mầu nhiệm, Chú là câu niệm đặc biệt có tác dụng rất huyền diệu.

    Vãng sanh Thần chú: là Câu niệm bằng tiếng Phạn đặc biệt của Phật giáo để cầu nguyện với Ðức Phật A-Di-Ðà cứu độ linh hồn người chết được sanh về cõi Cực Lạc Thế Giới.

    Vãng sanh Thần chú gồm 59 chữ, được giải nghĩa theo Phật Học Từ Ðiển của Ông Ðoàn trung Còn như sau:

    Nam-mô A-Di-Ðà Bà-Dạ: Tiếng Phạn là Namah Amitabhavyuha, nghĩa là: Qui kính Ðức A-Di-Ðà Phật.

    Ða-Tha-Già-Ða-Dạ: Tiếng Phạn là Tathagata, nghĩa là: Như Lai. (Như Lai là một trong 10 hiệu của Phật).

    Ða-Ðiệt-Dạ-Tha: dịch là tức thuyết chú viết, nghĩa là: Liền đọc bài Chú dưới đây.

    10 câu tiếp theo: là mật ngữ, đại ý có nghĩa là: Nhổ bỏ tận gốc các nghiệp chướng.

    Ta-Bà-Ha: tiếng Phạn là Swâha. Thường các bài Thần chú đều có 3 chữ chót là Ta-Bà-Ha, có nghĩa là: Thường tựu, kiết tường, tiêu tai tăng phước, viên tịch, vô trụ, kính Phật chứng minh.

    Vãng Sanh Thần Chú còn được gọi là: Chú Vãng Sanh, Vãng Sanh Chơn ngôn, Vãng Sanh Quyết định Chơn ngôn.

  • Kinh Khai Cửu Ðại Tường và Tiểu Tường

    Kinh Khai Cửu Ðại Tường và Tiểu Tường
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Ðã quá chín từng Trời đến vị. Ðã qua khỏi Chín từng Trời (Cửu Trùng Thiên) thì đến cõi Cực Lạc Thế Giới là nơi có ngôi vị cũ của mình.
    2. Thần đặng an, Tinh Khí cũng an. Người chết rồi thì Thể xác nằm yên trong lòng đất, còn Chơn thần và Chơn linh được các Ðấng Thiêng liêng cứu giúp nên cũng được yên ổn.
    3. Tầng Trời gắng bước lên thang. Các từng Trời từ thấp dần dần lên cao như những nấc thang, Chơn thần cố gắng bước lên.
    4. Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa. Trông thấy các lớp mây thì nhìn lại cái cảnh thong dong nhàn hạ thuở xưa, lúc còn ở cõi Thiêng Liêng, chưa đầu kiếp xuống trần.
    5. Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi. Cõi thảm khổ là cõi trần, Chơn thần đã vừa thoát ra khỏi cõi trần.
    6. Quên trần ai, mong mỏi Ðộng Ðào. Quên đi cõi trần đầy bụi bặm ô trược nầy, hãy mong mỏi đi lên cõi Tiên.
    7.
    8.
    Ngó chi khổ hải sóng xao,
    Ðoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên.
    Ðừng nhìn biển khổ đang dợn sóng ba đào, hãy cắt lìa các thứ tình cảm và đè nén lòng ham muốn thì mới vào được cõi Trời (cõi Thiêng Liêng Hằng Sống).
    9.
    10.
    Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ,
    Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân.
    Dầu cho những người thân yêu đổ lệ khóc than thương tiếc cái chết của mình, thì mình cũng chớ đau lòng mà trở lại cõi trần để phải chịu chìm đắm trong vòng luân hồi.
    11.
    12.
    Nắm cây huệ kiếm gươm thần,
    Dứt tan sự thế nợ trần từ đây.
    Cầm chặt cây kiếm trí huệ huyền diệu để dẹp tan việc đời và chặt đứt các món nợ oan nghiệt ràng buộc vào cõi trần thì từ đây mới có thể trở về cõi Thiêng Liêng.

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Khai Cửu, Ðại Tường và Tiểu Tường do Ðức Quan Âm Bồ Tát giáng cơ ban cho để đồng nhi tụng mở đầu trước khi tụng Kinh Tuần Cửu, Kinh Tiểu Tường hay Ðại Tường.

    Tuần Cửu: Tuần là khoảng thời gian đều đặn gồm nhiều ngày, Cửu là 9. Tuần Cửu là khoảng thời gian 9 ngày.

    Một tín đồ Cao Ðài khi chết, được thân nhân làm Tuần Cửu tại Thánh Thất sở tại, với một nghi thức đặc biệt ấn định trong Nghi Lễ của Ðạo Cao Ðài.

    Cứ sau khi chết được 9 ngày thì thân nhân đến Thánh Thất sở tại làm Tuần Nhứt Cửu, rồi tiếp theo đếm 9 ngày nữa thì làm Tuần Nhị Cửu, vv., cho đến Tuần Cửu Cửu mới chấm dứt Tuần Cửu, tổng cộng là 81 ngày.

    (Phật giáo thì làm Tuần Thất [Tuần 7 ngày], sau khi chết được 7 ngày thì làm Tuần Thất thứ nhứt, sau 7 ngày nữa thì làm Tuần Thất thứ nhì, vv. và tiếp tục đến Tuần Thất thứ bảy là chấm dứt, tính chung là 49 ngày).

    Tuần nhứt Cửu: Ngày chết được kể là 1, đếm tới ngày thứ 9 thì làm Tuần Nhứt Cửu tại Thánh Thất sở tại, tụng Kinh Ðệ Nhứt Cửu.

    Tuần Nhị Cửu: Tiếp tục đếm tới ngày thứ 18 thì làm Tuần Nhị Cửu, cũng làm tại Thánh Thất sở tại, tụng bài Kinh Ðệ Nhị Cửu.

    vv . . . . . . . . . . . . .

    Tuần Cửu Cửu: Tiếp tục đếm tới ngày thứ 81 thì làm Tuần Cửu Cửu, là kỳ chót hết, nên gọi là Chung Cửu, cũng làm tại Thánh Thất sở tại y như 8 kỳ Cửu trước và tụng bài Kinh Ðệ Cửu Cửu.

    Tiểu Tường: Tiểu là nhỏ, Tường là tốt lành. Tiểu Tường là điều tốt lành nhỏ. Ðại Tường là điều tốt lành lớn.

    Trong nhà có tang, cả nhà đều đau buồn thương xót tưởng nhớ người quá cố, nhưng thời gian lâu dần xoa dịu nỗi đau thương, cái buồn bớt dần, đem lại cái vui như một điều lành, điều tốt, vì vậy, Tiểu Tường cũng là Tiểu Kiết Tường.

    Theo Tân Luật của Ðạo Cao Ðài, hôm sau ngày làm Tuần Cửu Cửu, bắt đầu đếm 1, đếm tới ngày thứ 200 thì làm Lễ Tiểu Tường, cũng làm tại Thánh Thất sở tại, tụng bài Kinh Tiểu Tường.

    Ðại Tường: Hôm sau ngày làm Tiểu Tường, bắt đầu đếm 1, đếm tới ngày thứ 300 thì làm Lễ Ðại Tường. Tới Ðại Tường là mãn tang, làm Lễ Trừ Phục (đốt áo tang và khăn tang).

    Tính từ ngày chết đến ngày Lễ Ðại Tường mãn tang là 581 ngày, tức khoảng 1 năm 7 tháng rưỡi, chưa tới 2 năm.

    Câu 1: Ðã quá chín từng Trời đến vị.

    GIẢI NGHĨA

    Chín từng Trời: Cửu Trùng Thiên. Phía trên 9 từng Trời, là từng Trời thứ 10, gọi là Hư Vô Thiên, có cõi Cực Lạc Thế Giới, là nơi hoàn toàn an vui sung sướng. Ðã quá 9 từng Trời: Ðã đi qua được 9 từng Trời, tức là đến được từng Trời thứ 10 có cõi Cực Lạc Thế Giới.

    Vị: Ngôi vị.

    Ðến vị: Ðến chỗ đặt ngôi vị của mình.

    Câu 1: Ðã qua khỏi Chín từng Trời (Cửu Trùng Thiên) thì đến cõi Cực Lạc Thế Giới là nơi có ngôi vị cũ của mình.

    Câu 2: Thần đặng an, Tinh Khí cũng an.

    GIẢI NGHĨA

    Thần, Tinh, Khí: Ðây là Tam bửu của con người. Tinh là Thể xác, Khí là Chơn thần, Thần là Chơn linh hay Linh hồn.

    Câu 2: Người chết rồi thì Thể xác nằm yên trong lòng đất, còn Chơn thần và Chơn linh được các Ðấng Thiêng liêng cứu giúp nên cũng được yên ổn.

    Câu 3: Tầng Trời gắng bước lên thang.

    GIẢI NGHĨA

    Câu 3: Các từng Trời từ thấp dần dần lên cao như những nấc thang, Chơn thần cố gắng bước lên.

    Câu 4: Trông mây nhìn lại cảnh nhàn buổi xưa.

    GIẢI NGHĨA

    Câu 4: Trông thấy các lớp mây thì nhìn lại cái cảnh thong dong nhàn hạ thuở xưa, lúc còn ở cõi Thiêng Liêng, chưa đầu kiếp xuống trần.

    Câu 5: Cõi thảm khổ đã vừa qua khỏi.

    GIẢI NGHĨA

    Câu 5: Cõi thảm khổ là cõi trần, Chơn thần đã vừa thoát ra khỏi cõi trần.

    Câu 6: Quên trần ai, mong mỏi Ðộng Ðào.

    GIẢI NGHĨA

    Trần ai: Trần là bụi bặm, ai là bụi. Trần ai là chỉ cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống, vì cõi nầy có nhiều bụi bặm ô trược.

    Ðộng Ðào: chỉ cõi Tiên.

    Câu 6: Quên đi cõi trần đầy bụi bặm ô trược nầy, hãy mong mỏi đi lên cõi Tiên.

    Câu 7-8: Ngó chi khổ hải sóng xao, Ðoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên.

    GIẢI NGHĨA

    Ngó chi: Nhìn làm chi.

    Khổ hải: Biển khổ, chỉ cõi trần.

    Sóng xao: Những làn sóng xao động trên mặt nước.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng liêng Hằng sống, có đoạn nói về Khổ hải sóng xao:

    "Chúng ta dòm phía dưới thấy đại hải mênh mông, nước cuồn cuộn xanh như biếc, sóng dợn ba đào, mỗi làn sóng có đề chữ KHỔ, chúng ta chia ra đi trên ấy, chúng ta thấy dợn hào quang nổi lên dữ tợn lắm, mấy chữ lớn là: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, làn sóng dợn lên rồi hạ xuống, mỗi làn đều có một chữ KHỔ. Chúng ta thấy đau khổ trong buổi sanh, thấy làn sóng rồi chúng ta thấy khổ nhục, khổ dữ lắm, mỗi làn sóng đều thấy khổ, thử nghĩ đại hải như thế nào thì khổ hải là cả nước chúng ta như thế ấy."

    Ðoạn tình: Ðoạn là cắt đứt, tình là các thứ tình cảm của con người. Con người có Thất Tình:

    Hỷ [mừng],
    Nộ [giận],
    Ái [thương],
    Ố [ghét],
    Ai [buồn],
    Lạc [vui],
    Dục [muốn].

    Ðoạn tình là cắt đứt các thứ tình cảm.

    Yểm dục: Yểm là đè nén, dục là ham muốn. Con người có Lục Dục, tức là 6 thứ ham muốn, kể ra: Sắc dục [ham muốn sắc đẹp], Thinh dục [ham muốn âm thanh êm tai], Hương dục [ham muốn mùi thơm],Vị dục [ham muốn ăn ngon], Xúc dục [ham muốn da thịt mát mẻ], Ý dục [ham muốn được thỏa mãn ý nghĩ]. Yểm dục là đè nén lòng ham muốn. Lòng ham muốn là của xác thịt nên có xu hướng về đường vật chất, xúi giục con người làm điều sái quấy để nó được thỏa mãn. Cho nên cần phải đè nén lòng dục, và cần chuyển hóa nó vào đường cao thượng.

    Câu 7-8: Ngó chi khổ hải sóng xao, Ðoạn tình yểm dục đặng vào cõi Thiên, nghĩa là: Ðừng nhìn biển khổ đang dợn sóng ba đào, hãy cắt lìa các thứ tình cảm và đè nén lòng ham muốn thì mới vào được cõi Trời (cõi Thiêng Liêng Hằng Sống).

    Con người có Thất Tình và Lục Dục. Chúng là mối loạn hằng ngày trong tâm trí. Con người vì bị Thất Tình Lục Dục khiến sai mà hao tổn tinh thần, tiêu mòn khí phách. Chúng luôn luôn xô đẩy con người vào hang sâu vực thẳm.

    Làm người phải lập chí cao thượng, đừng để Thất Tình cám dỗ, Lục Dục khiến sai, mình phải có ý chí cương quyết mạnh mẽ làm chủ nó, hướng dẫn nó vào đường đạo đức, chớ đừng yếu ớt lôi thôi, mới mong đắc đạo, bước vào Tiên cảnh.

    Câu 9-10: Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ, Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân.

    GIẢI NGHĨA

    Giọt lụy: Giọt nước mắt, chỉ sự đau khổ thương tiếc.

    Cửu huyền: Theo nghĩa thông thường thì Cửu Huyền là Tổ Tiên 9 đời trước mình, sanh ra dòng họ nhà mình. Thờ Cửu Huyền là ý nói mình thờ Tổ Tiên 9 đời trước mình.

    Nhưng trong Câu Kinh nầy: Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ, là ý nói những người thân yêu đang chảy nước mắt khóc than thương tiếc cho cái chết của người thân, như thế thì Cửu Huyền ở đây là chỉ những người thân thiết đang còn sống, đang còn hiện tiền, mới khóc than trước cái chết của người thân yêu.

    Do đó, theo hướng nầy, chúng ta giải thích chữ Cửu Huyền là Cửu Tộc, bởi vì Bổn thị Cửu Tộc tức Hệ thống Cửu Huyền, Cửu Tộc và Cửu Huyền đều có cùng một nguyên lý.

    Theo Tộc chế đời nhà Châu, Cửu Tộc là 9 hạng người có liên hệ thân thuộc với bản thân mình, kể ra như sau:

    Những người trong ngũ phục thuộc họ cha.
    Cô và con cô.

    Chị em gái và con của chị em gái.
    Con gái và con của con gái.
    Bốn hạng người trên thuộc tộc cha.

    Cha của mẹ, tức là Ông ngoại.
    Mẹ của mẹ, tức là Bà ngoại.
    Chị em gái của mẹ và con của các vị ấy.
    Ba hạng người nầy thuộc tộc của mẹ.

    Cha vợ.
    Mẹ vợ.
    Hai hạng người nầy thuộc tộc của vợ.

    Nếu không căn cứ theo Tộc chế của nhà Châu, mà căn cứ theo sự gần gũi thương yêu, Cửu Tộc là 9 hạng người gần gũi thân thiết nhứt của mình có thể được kể ra như sau:

    Cha ruột.
    Mẹ ruột.
    Cha vợ [hoặc Cha chồng].

    Mẹ vợ [hoặc Mẹ chồng].
    Vợ [hoặc chồng] của BẢN THÂN.
    Anh chị ruột.
    Em ruột trai hay gái.
    Con.
    Cháu.

    Câu 9: Dầu cho những người thân thích trong 9 hạng đổ lệ khóc than thương tiếc cái chết của mình.

    Thuận: Bằng lòng theo.

    Trầm luân: Chìm đắm.

    Thuận nợ trầm luân: Bằng lòng đi theo sự kéo níu tình cảm của những người thân yêu để phải chìm đắm trong vòng luân hồi.

    Câu 9-10: Giọt lụy của Cửu Huyền dầu đổ, Chớ đau lòng thuận nợ trầm luân. Nghĩa là: Dầu cho những người thân yêu đổ lệ khóc than thương tiếc cái chết của mình, thì mình cũng chớ đau lòng mà trở lại cõi trần để phải chịu chìm đắm trong vòng luân hồi.

    Câu 11-12: Nắm cây huệ kiếm gươm thần, Dứt tan sự thế nợ trần từ đây.

    GIẢI NGHĨA

    Huệ: Sáng suốt, thông hiểu sự lý, dứt điều mê muội.

    Thần: Thiêng liêng huyền diệu.

    Huệ kiếm gươm thần: Cây kiếm trí huệ, cây gươm mầu nhiệm. Ðây là cách nói so sánh cho dễ hiểu, bởi vì người chiến sĩ dùng gươm và kiếm để đánh thắng kẻ địch, còn người tu thì dùng cái trí huệ đạt được của mình làm như cây gươm cây kiếm để quyết thắng các tên giặc Lục dục Thất Tình và chặt đứt mọi phiền não, mọi sợi dây ràng buộc con người vào cõi trần, để trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Dứt tan: Làm cho mất hẳn.

    Sự thế: Việc đời.

    Nợ trần: Các món nợ oan nghiệt gây ra nơi cõi trần.

    Câu 11-12: Cầm chặt cây kiếm trí huệ huyền diệu để dẹp tan việc đời và chặt đứt các món nợ oan nghiệt ràng buộc vào cõi trần thì từ đây mới có thể trở về cõi Thiêng Liêng.

  • Kinh Ðệ Nhứt Cửu

    Kinh Ðệ Nhứt Cửu
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo. Một cái hoa được sanh ra ở trong vườn Ngạn Uyển mà héo tàn thì một sanh mạng con người nơi cõi trần đã chết.
    2. Khối hình hài đã chịu rã tan. Thể xác phàm chết thì sình thúi và rã tan thành đất.
    3.
    4.
    Bảy dây oan nghiệt hết ràng,
    Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.
    7 sợi dây oan nghiệt đã được cắt đứt rồi, không còn ràng buộc Chơn thần nữa, đồng thời cũng đã rửa sạch hết các nhơ bợn của cõi trần bám vào Chơn thần làm cho Chơn thần dứt hết các nỗi đau thương.
    5. Kìa Thiên cảnh con đường vòi vọi. Kìa là con đường cao vòi vọi đi lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
    6. Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu. Ánh hào quang của Ðức Chí Tôn đương chiếu sáng rực rỡ Bạch Ngọc Kinh.
    7. Cung Thiềm gắng bước cho mau. Kìa là Cung Trăng, Chơn thần cố gắng bước đi cho mau.
    8. Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên. Ði lên qua được 3 Thần phẩm thì Chơn hồn đứng đầu ở từng Trời thứ ba (để chuẩn bị đi lên từng Trời thứ tư).
    9.
    10.
    Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại,
    Ðoạn cho rồi oan trái buổi sanh.
    Nên thức tỉnh để nhớ lại là mình đã có duyên từ kiếp trước. Cắt đứt cho rồi các món nợ oan nghiệt mà mình đã gây ra lúc còn sống nơi cõi trần.
    11.
    12.
    Ðem mình nương bóng Chí Linh,
    Ðịnh tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa.
    Ðem mình nương theo ánh sáng của Ðức Chí Tôn mà bước tới. Ðịnh cái Tâm cho được thiêng liêng mầu nhiệm thì mới gìn giữ được ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.
    13. Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh. Phải giữ cho linh hồn được yên ổn và thức tỉnh.
    14. Phách anh linh ắt phải anh linh. Chơn thần vốn cao quí thiêng liêng thì phải giữ cho luôn luôn được cao quí thiêng liêng.
    15.
    16.
    Quản bao Thập ác Lục hình,
    Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn.
    Có sá chi Mười điều ác của Thân Khẩu Ý, Sáu cảnh hấp dẫn phô bày nơi cõi trần, vì nay đã cởi bỏ thể xác rồi, hình hài đã tiêu mất rồi, đã thoát khỏi các cảnh khổ não nơi cõi trần và đoạt được ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

    (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Ðệ Nhứt Cửu do Nhứt Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Nhứt Nương có nhiệm vụ cai quản Vườn Ngạn Uyển của Ðức Phật Mẫu, và hướng dẫn các Chơn hồn vừa mới thoát xác, lên từng Trời thứ nhứt, đến Vườn Ngạn Uyển xem cái hoa của mình mới vừa héo úa. Các Chơn hồn còn được Nhứt Nương giúp cho định tỉnh Chơn thần và Chơn linh.

    Câu 1: Vườn Ngạn Uyển sanh hoa đã héo.

    GIẢI NGHĨA

    Ngạn Uyển: Ngạn là bờ cao, Uyển là cái vườn của nhà vua. Ngạn Uyển là cái vườn hoa của Ðức Phật Mẫu nơi cõi Thiêng Liêng. Trong vườn Ngạn Uyển có trồng đủ 12 sắc hoa khác nhau, tượng trưng 12 con Giáp (Thập nhị Ðịa Chi). Tuổi của con người nằm trong 12 con Giáp nầy. Mỗi sanh mạng của con người nơi thế gian đều được tượng hình bằng một cái hoa nở trong vườn. Mỗi khi hoa ấy héo tàn thì người ấy lìa trần trở về cõi Thiêng Liêng. Khi người ấy tái kiếp xuống trần thì hoa ấy lại nở ra. Khi người ấy làm điều đạo đức thì sắc hoa tươi thắm, nếu làm điều gian ác thì sắc hoa ủ dột xấu xí.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống:

    "Trước mắt chúng ta hiện tượng hào quang chiếu diệu một vườn hoa, đẹp đẽ đủ màu. Vườn hoa ở cảnh Thiêng Liêng ấy không phải như vườn hoa ở thế gian nầy đâu! Bông hoa thiêng liêng ấy sẽ sống một triệu lần do nơi huyền năng biến hóa của nó, và nó sẽ hiện tượng biến hóa trước mặt ta vô cùng vô tận vậy. Bởi vì nó thay đổi màu sắc rực rỡ vô biên, cho nên mỗi phen kiếp sanh tại thế nầy, đường tấn hóa trên con đường trí thức tinh thần, mỗi khi nhơn loại tiến triển lên thì vườn Ngạn Uyển nó sẽ đổi hình đổi tướng một cách đẹp đẽ vô ngần."

    Câu 1: Một cái hoa được sanh ra ở trong vườn Ngạn Uyển mà héo tàn thì một sanh mạng con người nơi cõi trần đã chết.

    Câu 2: Khối hình hài đã chịu rã tan.

    GIẢI NGHĨA

    Khối hình hài: Thể xác phàm bằng xương bằng thịt.

    Câu 2: Thể xác phàm chết thì sình thúi và rã tan thành đất.

    Câu 3-4: Bảy dây oan nghiệt hết ràng, Bợn trần rửa sạch muôn ngàn đau thương.

    GIẢI NGHĨA

    Bảy Dây oan nghiệt: Khi con người sống nơi cõi trần, Chơn thần liên lạc với Thể xác qua 7 dòng điện từ [còn gọi là 7 sợi dây từ khí] mà mắt phàm không thấy được.

    Nhờ 7 dòng điện từ nầy mà Chơn thần ra lịnh cho Thể xác phải làm đúng theo lời dạy bảo của Chơn linh, nhưng cũng qua 7 dòng điện từ nầy mà Xác phàm đòi hỏi Chơn thần phải làm cho nó thỏa mãn. Nếu Chơn linh yếu đuối không ngăn cản nổi thì Chơn thần làm theo sự đòi hỏi của Thể xác, nên mới gây ra nhiều mối oan nghiệt trong kiếp sống. Do đó mới gọi 7 dòng điện từ nầy là 7 dây oan nghiệt.

    Khi ta nằm chiêm bao, Chơn thần xuất khỏi Thể xác, nhưng vẫn nối liền Thể xác bằng 7 dòng điện từ. Khi có tiếng động mạnh, Thể xác nghe được, liền dùng 7 dòng điện từ nầy kéo Chơn thần trở về lập tức, và liền đó ta giựt mình thức dậy.

    Bảy dây oan nghiệt ở vào 7 nơi trong cơ thể:

    Trên đầu [mỏ ác].
    Ngay trán.
    Ngay cổ.
    Ngay tim.
    Ngay hông trái.
    Ngay dạ dưới.
    Dưới xương khu.

    Khi Thể xác chết, 7 dây oan nghiệt vẫn còn kéo níu Chơn thần, ràng buộc Chơn thần không cho xuất ra. Do đó, Ðức Chí Tôn ban cho Phép Ðoạn Căn để Chức sắc hành pháp cắt đứt 7 dây oan nghiệt, Chơn thần mới xuất ra rời bỏ thể xác, bay lên cõi Thiêng Liêng.

    Bợn trần: Các thứ dơ bẩn nơi cõi trần làm ô trược bổn tánh tốt đẹp và Chơn thần của con người.

    Câu kinh 4 nói về Phép Xác, Chức sắc hành pháp dùng Cam Lồ Thủy tẩy rửa Chơn thần của người chết cho thanh khiết , trước khi hành pháp Ðoạn Căn cắt 7 dây oan nghiệt.

    Câu 3-4: 7 sợi dây oan nghiệt đã được cắt đứt rồi, không còn ràng buộc Chơn thần nữa, đồng thời cũng đã rửa sạch hết các nhơ bợn của cõi trần bám vào Chơn thần làm cho Chơn thần dứt hết các nỗi đau thương.

    Câu 5: Kìa Thiên cảnh con đường vòi vọi.

    GIẢI NGHĨA

    Thiên cảnh: Cõi Trời, cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Vòi vọi: Ở cao quá tầm nhìn của mắt như là không thấy đâu là tận cùng.

    Câu 5: Kìa là con đường cao vòi vọi đi lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Câu 6: Ánh Hồng Quân đương chói Ngọc Lầu.

    GIẢI NGHĨA

    Hồng Quân: Hồng là to lớn, Quân là cái bàn xoay của người thợ nặn đồ gốm. Hồng Quân là cái bàn xoay to lớn dùng để nặn ra các thứ đồ vật, ý so sánh để nói rằng: Ðấng Tạo Hóa là Ông Thợ Trời, chuyển vận 2 khí Âm Dương làm như cái bàn xoay to lớn để tạo hóa ra vạn vật. Do đó, Hồng Quân là chỉ Ðức Chí Tôn.

    Ngọc Lầu: Tòa lầu đài bằng ngọc, ý nói Bạch Ngọc Kinh, nơi thường ngự của Ðức Chí Tôn.

    Câu 6: Ánh hào quang của Ðức Chí Tôn đương chiếu sáng rực rỡ Bạch Ngọc Kinh.

    Câu 7: Cung Thiềm gắng bước cho mau.

    GIẢI NGHĨA

    Cung Thiềm: Thiềm là con thiềm thừ, tục gọi là con cóc. Tương truyền trên Cung Trăng có một con thiềm thừ to lớn đẹp đẽ, đã sống được 8000 tuổi, dưới họng có chữ son. Do đó, Cung Thiềm là chỉ Cung Trăng hay Mặt trăng. Nơi đây là Bạch Vân Ðộng của chư Thánh, mà vị đứng đầu là Thanh Sơn Ðạo Sĩ, tức là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm.

    Câu 7: Kìa là Cung Trăng, Chơn thần cố gắng bước đi cho mau.

    Câu 8: Thoát ba Thần phẩm đứng đầu Tam Thiên.

    GIẢI NGHĨA

    Ba Thần phẩm: 3 bực Thần: - Ðịa Thần, - Nhơn Thần, - Thiên Thần.

    Tam Thiên: Tam là thứ 3, Thiên là từng Trời. Tam Thiên là từng Trời thứ 3, đó là từng Thanh Thiên. Theo Vũ Trụ Quan của Ðạo Cao Ðài: Từng Trời thứ nhứt có Vườn Ngạn Uyển, Từng Trời thứ nhì có Vườn Ðào Tiên, Từng Trời thứ ba là Thanh Thiên, Từng Trời thứ tư là Huỳnh Thiên, vv.

    Câu 8: Ði lên qua được 3 Thần phẩm thì Chơn hồn đứng đầu ở từng Trời thứ ba (để chuẩn bị đi lên từng Trời thứ tư).

    Câu 9-10: Khá tỉnh thức tiền duyên nhớ lại, Ðoạn cho rồi oan trái buổi sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Khá: Nên, phải nên.

    Tỉnh thức: Thức tỉnh, tỉnh ra mà biết rõ, không còn mê lầm nữa.

    Tiền duyên: Duyên trước, tức là mối dây ràng buộc được định sẵn từ kiếp trước.

    Ðoạn: Cắt đứt.

    Oan trái: Oan là thù giận, trái là món nợ. Oan trái là món nợ về thù giận, tức là món nợ oan nghiệt.

    Buổi sanh: Lúc còn sống nơi cõi trần.

    Câu 9-10: Nên thức tỉnh để nhớ lại là mình đã có duyên từ kiếp trước. Cắt đứt cho rồi các món nợ oan nghiệt mà mình đã gây ra lúc còn sống nơi cõi trần.

    Câu 11-12: Ðem mình nương bóng Chí Linh, Ðịnh tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa.

    GIẢI NGHĨA

    Nương: Dựa vào, nhờ cậy vào.

    Bóng: Ánh sáng.

    Ðịnh tâm: Gìn giữ cái Tâm cho được yên ổn, không vọng động. Phép tu Thiền: Giới, Ðịnh, Huệ, là để định cái Tâm cho đến khi đạt được trí huệ.

    Chí Thánh: Rất thiêng liêng mầu nhiệm. Thánh là thiêng liêng mầu nhiệm.

    Ngôi xưa: Ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

    Câu 11-12: Ðem mình nương theo ánh sáng của Ðức Chí Tôn mà bước tới. Ðịnh cái Tâm cho được thiêng liêng mầu nhiệm thì mới gìn giữ được ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

    Câu 13: Hồn định tỉnh đã vừa định tỉnh.

    GIẢI NGHĨA

    Ðịnh tỉnh: Ðịnh là sắp đặt yên ổn, tỉnh là không mê, hiểu rõ mọi việc. Ðịnh tỉnh là làm cho tinh thần được yên ổn mà nhận biết rõ mọi việc.

    Câu 13: Phải giữ cho linh hồn được yên ổn và thức tỉnh.

    Câu 14: Phách anh linh ắt phải anh linh.

    GIẢI NGHĨA

    Phách: Chơn thần.

    Anh linh: Anh là đẹp nhứt, linh là thiêng liêng. Anh linh là cao quí thiêng liêng.

    Câu 14: Chơn thần vốn cao quí thiêng liêng thì phải giữ cho luôn luôn được cao quí thiêng liêng.

    Câu 15-16: Quản bao Thập ác Lục hình, Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn.

    GIẢI NGHĨA

    Quản bao: Chẳng ngại, có sá chi, coi không đáng kể.

    Thập ác: Mười điều ác do Thân, Khẩu, Ý của con người gây ra.

    Thân thì tạo ra 3 điều ác:

    - Sát sanh,
    - Du đạo,
    - Tà dâm.

    Khẩu thì tạo ra 4 điều ác:

    - Nói dối,
    - Nói ác,
    - Nói chia rẽ,
    - Nói phù phiếm.

    Ý thì tạo ra 3 điều ác:

    - Tham lam,
    - Sân giận,
    - Si mê.

    Khi còn sống nơi cõi trần thì Thân, Khẩu, Ý còn gây ra được 10 điều ác. Nay Thể xác đã chết rồi thì không thể gây ra Thập ác, nên chẳng còn e ngại nữa.

    Lục hình: Sáu hình thức phô bày ra nơi cõi trần, Phật giáo goị là Lục cảnh hay Lục trần, gồm: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Trong thể xác con người có Lục căn:

    Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân, Ý,
    tức là:
    Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Da thịt, Ý nghĩ.

    Lục cảnh phô bày trước Lục căn, hấp dẫn Lục căn, làm cho Lục căn ham muốn,
    sanh ra
    Lục dục: Sắc dục, Thinh dục, Hương dục, Vị dục, Xúc dục, Ý dục.

    Chính Lục dục nầy xúi giục và xô đẩy con người vào vòng vật chất, xa đường đạo đức, tạo ra cho con người biết bao mối oan nghiệt nơi cõi trần .

    Khi thân thể con người chết đi thì Lục căn tiêu mất, cho nên dù Lục cảnh (Lục trần hay Lục hình) có cám dỗ thế mấy đi nữa thì cũng chẳng làm gì được.

    Giải thi: Giải là cởi bỏ, Thi là thi hài thể xác. Giải thi là cởi bỏ thể xác, tức là thể xác chết vì Chơn thần và Linh hồn đã lìa bỏ thể xác.

    Thoát khổ: Thoát khỏi cảnh khổ não.

    Diệt hình: Diệt là làm cho mất đi, tiêu diệt; Hình là hình thể sắc tướng. Diệt hình là tiêu diệt hình thể sắc tướng, mà khi sắc tướng không còn nữa thì chỉ còn cái Vô vi, Vô hình.

    Ðoạt căn: Ðoạt được cái nguồn gốc của mình, tức là đắc đạo, trở về ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

    Câu 15-16: Quản bao Thập ác Lục hình, Giải thi thoát khổ diệt hình đoạt căn. Nghĩa là: Có sá chi Mười điều ác của Thân Khẩu Ý, Sáu cảnh hấp dẫn phô bày nơi cõi trần, vì nay đã cởi bỏ thể xác rồi, hình hài đã tiêu mất rồi, đã thoát khỏi các cảnh khổ não nơi cõi trần và đoạt được ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1936, Kinh Lễ năm 1952: đoạt căn.
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1968, 1974, 1975: đoạn căn.
    Ðoạn căn: là phép cắt đứt 7 Dây oan nghiệt để cho Chơn thần thoát khỏi thể xác, trở về cõi thiêng liêng.

  • Kinh Ðệ Nhị Cửu

    Kinh Ðệ Nhị Cửu
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Tây Vương Mẫu vườn Ðào ướm chín. Vườn Ðào Tiên của Phật Mẫu có trái sắp chín.
    2. Chén trường sanh có lịnh ngự ban. Chơn hồn lên đến Vườn Ðào Tiên thì có lịnh của Ðức Phật Mẫu ban cho chén rượu Tiên, để Chơn hồn uống vào được trường sanh.
    3.
    4.
    Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng,
    Chơn thần khá đến hội hàng chư Linh.
    Bữa tiệc lớn đã được dọn sẵn sàng, Chơn thần nên đến tham dự để hội họp cùng các Ðấng Thiêng liêng.
    5. Ðã thấy đủ Thiên đình huyền pháp. Ðã thấy đủ các phép biến hóa huyền diệu của Thiên đình.
    6. Cổi giác thân lên đạp Ngân kiều. Cổi bỏ xác thân phàm, Chơn thần nhẹ nhàng đặt chân lên Ngân kiều để chuẩn bị đi qua biển khổ.
    7. Ðẩu tinh chiếu thấu Nguyên tiêu. Sao Bắc Ðẩu chiếu sáng thấu đến từng Trời thứ nhứt.
    8. Kim quang kiệu đỡ đến triều Ngọc Hư. Lằn ánh sáng vàng làm như cái kiệu đỡ gót Chơn thần đưa đến chầu Ðức Chí Tôn nơi Ngọc Hư Cung.
    9.
    10.
    Khí trong trẻo dường như băng tuyết.
    Thần im đìm dường nét thiều quang.
    Chơn thần thì trong trẻo tinh khiết như băng tuyết, còn Chơn linh thì im lìm và đẹp như ánh sáng mùa Xuân.
    11.
    12.
    Xa chừng thế giới Ðịa hoàn,
    Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng.
    Ði đã khá xa cõi trần, thấy cõi Thiêng Liêng Hằng Sống đẹp đẽ, Chơn thần nhẹ nhàng bay lên cao.

    (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Ðệ Nhị Cửu do Nhị Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Nhị Nương có nhiệm vụ cai quản Vườn Ðào Tiên của Ðức Phật Mẫu, và hướng dẫn các chơn hồn từ từng Trời thứ nhứt đi lên từng Trời thứ hai, đến Vườn Ðào Tiên dự tiệc trường sanh.

    Câu 1: Tây Vương Mẫu vườn Ðào ướm chín.

    GIẢI NGHĨA

    Tây Vương Mẫu: Một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu.

    Vườn Ðào: Vườn Ðào Tiên của Ðức Phật Mẫu. Trái Ðào Tiên còn được gọi là trái Bàn Ðào. Cây Ðào Tiên không trồng ở thế gian được vì theo lời Ðức Phật Mẫu, đất ở thế gian mỏng lắm. Tương truyền, vườn Ðào Tiên của Ðức Phật Mẫu có 3600 cây, chia làm 3 phần:

    Ðàng trước có 1200 cây, hoa nhỏ trái nhỏ, 3000 năm mới chín, người ăn Ðào nầy thì thân thể nhẹ nhàng.

    Khoảng giữa có 1200 cây, hoa thơm trái ngọt, 6000 năm mới chín, người ăn vào có thể bay bổng lên mây.

    Phía sau có 1200 cây, trái có vỏ vân tím hột vàng, 9000 năm mới chín, người ăn vào được trường sanh bất lão.

    Theo lời thuyết đạo của Ðức Phạm Hộ Pháp, nơi Diêu Trì Cung, Ðức Phật Mẫu trụ sanh quang lại làm thành một khối gọi là quả Ðào Tiên, đủ sự sống vĩnh cửu nơi cõi Hư linh. Người ăn trái Ðào Tiên sẽ được mạnh khỏe luôn, trẻ mãi không già.

    Ðức Phật Mẫu dùng trái Ðào Tiên làm phần thưởng cho các Chơn linh đắc đạo trở về đến bái kiến Ðức Phật Mẫu.

    Ướm chín: Trái cây vừa mới bắt đầu chín, màu hơi ửng lên.

    Câu 1: Vườn Ðào Tiên của Phật Mẫu có trái sắp chín.

    Câu 2: Chén trường sanh có lịnh ngự ban.

    GIẢI NGHĨA

    Trường sanh: Sống lâu dài.

    Chén trường sanh: Chén rượu Tiên, uống vào thì được trường thọ.

    Ngự ban: Ý nói Ðức Phật Mẫu ban tặng. Ngự là chỉ hành động của vua.

    Câu 2: Chơn hồn lên đến Vườn Ðào Tiên thì có lịnh của Ðức Phật Mẫu ban cho chén rượu Tiên, để Chơn hồn uống vào được trường sanh.

    Câu 3-4: Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng, Chơn thần khá đến hội hàng chư Linh.

    GIẢI NGHĨA

    Tiệc hồng: Hồng là to lớn. Tiệc hồng là bữa tiệc lớn, long trọng, có nhiều người tham dự.

    Khá đến: Nên đến.

    Hội hàng: Hội hè, hội họp.

    Chư Linh: Các Ðấng Thiêng Liêng. Chư là nhiều vị, Linh là thiêng liêng.

    Câu 3-4: Bữa tiệc lớn đã được dọn sẵn sàng, Chơn thần nên đến tham dự để hội họp cùng các Ðấng Thiêng liêng.

    Câu 5: Ðã thấy đủ Thiên đình huyền pháp.

    GIẢI NGHĨA

    Thiên đình: Triều đình của Ðức Chí Tôn.

    Huyền pháp: Phép thuật biến hóa huyền diệu.

    Câu 5: Ðã thấy đủ các phép biến hóa huyền diệu của Thiên đình.

    Câu 6: Cổi giác thân lên đạp Ngân kiều.

    GIẢI NGHĨA

    Cổi: Bỏ ra.

    Giác thân: Giác là biết, thân là xác thân. Giác thân là xác thân có các cơ quan để nhận biết các sự vật và hiện tượng chung quanh. Ðây là xác thân phàm của con người có ngũ giác quan (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Da).

    Cổi Giác thân: Bỏ đi cái xác thân phàm, đừng luyến tiếc nó.

    Ngân kiều: Ngân là sông Ngân, Ngân Hà; Kiều là cây cầu. Ngân kiều là cây cầu bắc qua Ngân Hà. Ngân Hà là con sông lớn nơi cõi Thiêng liêng, chia cách tình yêu của Ngưu Lang và Chức Nữ, đó là dòng sông đau khổ, nối liền với biển khổ, nên nó cũng được xem như biển khổ.

    Câu 6: Cổi bỏ xác thân phàm, Chơn thần nhẹ nhàng đặt chân lên Ngân kiều để chuẩn bị đi qua biển khổ.

    Câu 7: Ðẩu tinh chiếu thấu Nguyên tiêu.

    GIẢI NGHĨA

    Ðẩu tinh: Tinh là ngôi sao, Ðẩu tinh là ngôi sao Bắc Ðẩu.

    Nguyên tiêu: Nguyên là bắt đầu, thứ nhứt; Tiêu là từng Trời. Nguyên tiêu là từng Trời thứ nhứt. Ở đây, Nguyên tiêu không có nghĩa là đêm rằm tháng giêng.

    Câu 7: Sao Bắc Ðẩu chiếu sáng thấu đến từng Trời thứ nhứt.

    Câu 8: Kim quang kiệu đỡ đến triều Ngọc Hư.

    GIẢI NGHĨA

    Kim quang: Lằn ánh sáng màu vàng.

    Kiệu: Ðồ dùng sang trọng để ngồi trên đó có người khiêng đi.

    Kiệu đỡ: Ngồi lên kiệu có người khiêng đi.

    Triều: Chầu vua.

    Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung.

    Câu 8: Lằn ánh sáng vàng làm như cái kiệu đỡ gót Chơn thần đưa đến chầu Ðức Chí Tôn nơi Ngọc Hư Cung.

    Câu 9-10: Khí trong trẻo dường như băng tuyết. Thần im đìm dường nét thiều quang.

    GIẢI NGHĨA

    Khí và Thần: Tam bửu của con người là Tinh, Khí, Thần. Tinh là Thể xác, Khí là Chơn thần, Thần là Chơn linh.

    Băng tuyết: Băng là nước đong lại thành những tảng lớn, thấy trong suốt. Tuyết là hơi nước gặp lạnh ở dưới 0oC, đông lại thành những hạt nhỏ rơi xuống trắng xóa. Băng tuyết là chỉ sự trong sạch.

    Im đìm: Hoàn toàn im lặng.

    Thiều quang: Thiều là đẹp, quang là ánh sáng. Thiều quang là ánh sáng đẹp. Ðó là ánh sáng của mùa Xuân.

    Câu 9-10: Chơn thần thì trong trẻo tinh khiết như băng tuyết, còn Chơn linh thì im lìm và đẹp như ánh sáng mùa Xuân.

    Câu 11-12: Xa chừng thế giới Ðịa hoàn, Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng.

    GIẢI NGHĨA

    Xa chừng: Chừng là mức độ hạn định một cách đại khái. Xa chừng là đã khá xa chỗ đó.

    Ðịa hoàn: Ðịa là đất, hoàn là vùng đất lớn. Ðịa hoàn là Ðịa cầu. Thế giới Ðịa hoàn: Ý nói Ðịa cầu 68 của nhơn loại.

    Câu 11-12: Ði đã khá xa cõi trần, thấy cõi Thiêng Liêng Hằng Sống đẹp đẽ, Chơn thần nhẹ nhàng bay lên cao.

  • Kinh Ðệ Tam Cửu

    Kinh Ðệ Tam Cửu
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng đảo.
    Ðộng Thiên Thai Bảy Lão đón đường.
    Từ cõi Thanh Thiên đi lên miền đảo Bồng Lai, có 7 Ông Tiên ở động Thiên Thai ra đường đón tiếp.
    3.
    4.
    Cam lồ rưới giọt nhành dương,
    Thất tình Lục dục như dường tiêu tan.
    Dùng cành cây dương liễu nhúng vào nước Cam lồ, rải lên Chơn thần để làm cho Lục dục và Thất tình tiêu tan.
    5. Cung Ðẩu Tốt nhặt khoan tiếng nhạc. Nơi Cung Ðẩu Suất của Ðức Thái Thượng Lão Quân có tiếng nhạc phát ra khi nhanh khi chậm.
    6. Ðệ lịnh bài cánh hạc đưa linh. Trình cái thẻ lịnh bài thì được cỡi lên chim hạc để chim hạc đưa chơn linh đi lên.
    7. Tiêu thiều lấp tiếng dục tình. Khúc nhạc tiêu thiều che lấp dục tình, khiến cho tâm hồn con người trở nên cao thượng.
    8. Bờ dương bóng phụng đưa mình nâng thân. Chim phụng đưa Chơn thần lên bờ đạo đức.
    9.
    10.
    Cung Như Ý Lão Quân tiếp khách,
    Hội Thánh Minh giao sách Trường xuân.
    Ðức Thái Thượng hội chư Tiên và chư Thánh lại gọi là Hội Thánh Minh, giao cho Chơn hồn một quyển sách tên là sách Trường Xuân, để Chơn hồn học tập theo đó mà tu luyện thành bực Thánh, bực Tiên.
    11.
    12.
    Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn.
    Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên.
    Ánh sáng màu xanh sáng ngời rực rỡ soi khắp núi rừng, Chơn hồn khoái lạc lên đường, trông mong lên Trời chầu Ðức Chí Tôn.

    (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Ðệ Tam Cửu do Tam Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Tam Nương có nhiệm vụ hướng dẫn các chơn hồn lên Thanh Thiên, là từng Trời thứ 3 trong Cửu Trùng Thiên. Gọi là Thanh Thiên vì ở từng Trời nầy, ánh sáng đều có màu xanh.

    Câu 1-2: Cõi Thanh Thiên lên miền Bồng đảo. Ðộng Thiên Thai Bảy Lão đón đường.

    GIẢI NGHĨA

    Bồng đảo: Ðảo Bồng Lai. Tương truyền ở biển Bột Hải nơi cõi Thiêng Liêng có 3 hòn đảo: Bồng đảo [tức là đảo Bồng Lai], Dinh đảo [tức là đảo Dinh Châu], Phương đảo [tức là đảo Phương Trượng]. Ba hòn đảo nầy đều có các vị Tiên đến ở. Trên đảo Bồng Lai có núi Bồng Lai (Bồng sơn) là nơi ở của Bát Tiên. Nước biển chung quanh 3 hòn đảo nầy thì rất nhẹ, không đỡ nổi hột cải, nên gọi là Nhược Thủy (nước yếu).

    Ðộng: Hang đá trong núi. Thiên Thai: tên của một hòn núi có Tiên ở. Trong truyện Lưu Thần và Nguyễn Triệu, hai chàng đi lên núi Thiên Thai hái thuốc, bị lạc không biết đường về, xảy gặp 2 nàng Tiên từ trong núi đi ra, rồi kết duyên cùng 2 nàng Tiên nầy. Ở núi Thiên Thai được chừng nửa năm, 2 chàng nhớ quê đòi trở về thăm. Khi về đến nhà thì con cháu đã đến đời thứ 7, không còn ai nhận ra. Hai chàng thất vọng, buồn bã trở lại núi Thiên Thai thì không tìm được đường lên núi, đành chịu chết ở chơn núi.

    Bảy Lão: Bảy Ông Tiên, có lẽ đây là Trúc Lâm Thất Hiền tu thành Tiên. Ðây là 7 Ông Hiền ở trong rừng trúc, vào đời nhà Tấn bên Tàu, có tên là: Nguyễn Tịch, Kê Khang, Hướng Tú, Lưu Linh, Sơn Ðào, Nguyễn Hàm, Vương Nhung.

    Câu 1-2: Từ cõi Thanh Thiên đi lên miền đảo Bồng Lai, có 7 Ông Tiên ở động Thiên Thai ra đường đón tiếp.

    Câu 3-4: Cam lồ rưới giọt nhành dương, Thất tình Lục dục như dường tiêu tan.

    GIẢI NGHĨA

    Cam lồ: Nước Cam lồ, thứ nước huyền diệu do Ðức Quan Âm Bồ Tát chế thành. Thường thấy trên các hình hay tượng Ðức Quan Thế Âm, tay trái của Ðức Bồ Tát cầm Tịnh bình chứa nước Cam lồ, tay mặt cầm cành dương liễu, để nhúng vào Tịnh bình mà làm phép rải nước Cam lồ.

    Giọt nhành dương: Giọt nước nơi cành dương liễu, đó là giọt nước Cam lồ của Ðức Quan Âm Bồ Tát.

    Câu 3-4: Dùng cành cây dương liễu nhúng vào nước Cam lồ, rải lên Chơn thần để làm cho Lục dục và Thất tình tiêu tan.

    Hai Câu kinh nầy là nói về Phép Xác: Vị Chức sắc hành pháp dùng nước Âm Dương cúng nơi Thiên bàn, đổ chung lại để luyện thành Cam lồ thủy, rồi dùng cành dương liễu nhúng vào nước nầy rải lên Chơn thần người chết đang nằm trong quan tài, để tẩy rửa Chơn thần cho được tinh khiết. Vị Chức sắc hành pháp phải trụ thần cho có huệ nhãn mới nhìn xuyên qua được lớp ván của quan tài, thấy được Chơn thần của người chết, thì việc hành pháp mới đạt hiệu quả huyền diệu.

    Câu 5: Cung Ðẩu Tốt nhặt khoan tiếng nhạc.

    GIẢI NGHĨA

    Cung Ðẩu Tốt: Ðây là Cung Ðẩu Suất của Ðức Thái Thượng Lão Quân.

    Nhặt khoan: Khi nhanh khi chậm.

    Câu 5: Nơi Cung Ðẩu Suất của Ðức Thái Thượng Lão Quân có tiếng nhạc phát ra khi nhanh khi chậm.

    Câu 6: Ðệ lịnh bài cánh hạc đưa linh.

    GIẢI NGHĨA

    Ðệ: Ðưa lên cấp trên với cử chỉ kính trọng.

    Lịnh bài: Cái thẻ bài dùng làm hiệu lịnh của một vị Bề Trên cấp cho.

    Cánh hạc: Ðôi cánh chim hạc.

    Ðưa linh: Ðưa linh hồn đi lên.

    Câu 6: Trình cái thẻ lịnh bài thì được cỡi lên chim hạc để chim hạc đưa chơn linh đi lên.

    Câu 7: Tiêu thiều lấp tiếng dục tình.

    GIẢI NGHĨA

    Tiêu thiều: Tiêu là cái ống sáo, thiều là sáng đẹp. Tiêu thiều là tên của một khúc nhạc thổi bằng ống sáo nghe rất réo rắt, khiến người nghe có tư tưởng trở nên cao thượng. Tương truyền khúc nhạc Tiêu thiều nầy do Bà Nữ Oa chế ra và vua Thuấn học được, đem dạy cho nhạc công trong triều đình.

    Dục tình: Lòng ham muốn vật chất hay thú vui xác thịt.

    Câu 7: Tiêu thiều lấp tiếng dục tình, nghĩa là: Khúc nhạc tiêu thiều che lấp dục tình, khiến cho tâm hồn con người trở nên cao thượng.

    Câu 8: Bờ dương bóng phụng đưa mình nâng thân.

    GIẢI NGHĨA

    Bờ dương: Cái bờ đất có trồng cây dương. Trong Ðạo Ðức Kinh có câu: Dương vô trần nhiễm, Ðạo giả như dương. Nghĩa là: Cây dương không nhiễm bụi trần, Ðạo thì như cây dương. Do đó, Bờ dương là bờ đạo đức.

    Bóng phụng: Hình ảnh của con chim phụng.

    Bờ dương bóng Phụng: Do câu Hán văn: Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn, nghĩa là: Con chim phụng ngậm sắc lịnh của vua tiến lên bờ đạo đức. (Hàm là ngậm, Ðơn chiếu là tờ chiếu đỏ của vua, Ðề là tiến lên, Dương bạn là bờ dương).

    Nâng thân: Nâng đỡ xác thân thiêng liêng đem lên.

    Câu 8: Chim phụng đưa Chơn thần lên bờ đạo đức.

    Câu 9-10: Cung Như Ý Lão Quân tiếp khách, Hội Thánh Minh giao sách Trường xuân.

    GIẢI NGHĨA

    Ðức Thái Thượng Lão Quân tiếp khách tại Cung Như Ý,

    Câu 9-10: Ðức Thái Thượng hội chư Tiên và chư Thánh lại gọi là Hội Thánh Minh, giao cho Chơn hồn một quyển sách tên là sách Trường Xuân, để Chơn hồn học tập theo đó mà tu luyện thành bực Thánh, bực Tiên.

    Câu 11-12: Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn. Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên.

    GIẢI NGHĨA

    Thanh quang: Ánh sáng màu xanh. Thanh là màu xanh. Nơi từng Trời Thanh Thiên, ánh sáng đều có màu xanh.

    Rỡ rỡ: Sáng ngời rực rỡ chói lọi.

    Ðòi ngàn: Ðòi là nhiều, ngàn là rừng núi. Ðòi ngàn là rừng núi chập chồng.

    Vọng Thiên: Vọng là trông mong, Thiên là Trời. Vọng Thiên là trông mong lên Trời chầu Ðức Chí Tôn.

    Câu 11-12: Thanh quang rỡ rỡ đòi ngàn, Chơn hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên. Nghĩa là: Ánh sáng màu xanh sáng ngời rực rỡ soi khắp núi rừng, Chơn hồn khoái lạc lên đường, trông mong lên Trời chầu Ðức Chí Tôn.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974:
    đôi ngàn.
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1975:
    đòi ngàn.
    Ðôi là hai.
    Ðòi là nhiều.
    Dùng chữ ÐÒI mới đúng.

  • Kinh Ðệ Tứ Cửu

    Kinh Ðệ Tứ Cửu
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Sắc huỳnh chiếu roi vàng đường hạc. Ánh sáng màu vàng chiếu vào làm cho đường bay của chim hạc lưu lại màu vàng.
    2. Cõi Huỳnh Thiên nhẹ thoát chơn Tiên. Bước chơn nhẹ nhàng thanh thoát như Tiên đi lên từng Trời Huỳnh Thiên.
    3.
    4.
    Năm rồng đỡ nổi đầu thuyền,
    Vào Cung Tuyệt Khổ kiến Huyền Thiên Quân.
    Chơn hồn bước xuống chiếc thuyền có 5 con rồng đỡ đầu thuyền nổi lên, đưa Chơn hồn vào Cung Tuyệt Khổ để bái kiến Ðức Huyền Thiên Quân.
    5.
    6.
    Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng,
    Bộ Lôi Công giải tán trược quang.
    Cây roi thần quơ lên lóe sáng để tẩy trừ tà khí, và các Thần Sấm sét trong Bộ Lôi Công làm tiêu tan hết các chất ô trược bám vào Chơn thần.
    7.
    8.
    Cửa Lầu Bát Quái chun ngang,
    Hỏa tinh Tam muội thiêu tàn oan gia.
    Chơn thần chun ngang qua cửa Bát Quái Đài, các Ðấng dùng lửa Tam-muội đốt cháy tiêu hết các oan gia nghiệp chướng.
    9. Ðạp Thái sơn nhảy qua Ðẩu Suất. Chơn thần đã có Thần thông, nên đứng trên núi Thái sơn nhảy qua tới Cung Ðẩu Suất.
    10. Vịn Kim câu đến chực Thiên môn. Dựa vào Câu Tiên bài của Ðức Thái Thượng Lão Quân, Chơn thần đến chờ sẵn tại cửa Trời.
    11.
    12.
    Chơn thần đã nhập Càn khôn.
    Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.
    Chơn thần đã nhập vào Càn Khôn Vũ Trụ (tức là đắc đạo), nên có quyền trở lại cõi trần để cứu giúp người đời và bảo tồn chúng sanh.

    (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Ðệ Tứ Cửu do Tứ Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Tứ Nương có nhiệm vụ hướng dẫn các Chơn hồn lên từng Trời Huỳnh Thiên. Từng Trời nầy có ánh sáng đều màu vàng, nên được gọi là Huỳnh Thiên. Huỳnh là màu vàng.

    Câu 1: Sắc huỳnh chiếu roi vàng đường hạc.

    GIẢI NGHĨA

    Roi: Lưu lại, roi dấu.

    Ðường hạc: Ðường bay của chim hạc.

    Câu 1: Ánh sáng màu vàng chiếu vào làm cho đường bay của chim hạc lưu lại màu vàng.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh Lễ in bên Pháp 1952: chiếu rõi vàng.
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975: chiếu roi vàng.
    Rõi: Dõi, theo sát, nối theo.

    Câu 2: Cõi Huỳnh Thiên nhẹ thoát chơn Tiên.

    GIẢI NGHĨA

    Nhẹ thoát: Thanh thoát nhẹ nhàng.

    Nhẹ thoát chơn Tiên: Bước chơn đi nhẹ nhàng thanh thoát như Tiên.

    Câu 2: Bước chơn nhẹ nhàng thanh thoát như Tiên đi lên từng Trời Huỳnh Thiên.

    Câu 3-4: Năm rồng đỡ nổi đầu thuyền, Vào Cung Tuyệt Khổ kiến Huyền Thiên Quân.

    GIẢI NGHĨA

    Kiến: Thấy, gặp. Thường nói: Bái kiến là lạy chào, mừng gặp một Ðấng Thiêng liêng.

    Câu 3-4: Chơn hồn bước xuống chiếc thuyền có 5 con rồng đỡ đầu thuyền nổi lên, đưa Chơn hồn vào Cung Tuyệt Khổ để bái kiến Ðức Huyền Thiên Quân.

    Ðức Huyền Thiên Quân ở Cung Tuyệt Khổ chỉ là một hóa thân của Ðấng Thượng Ðế, bởi vì theo nấc thang Tiến Hóa với đề mục là chữ Khổ: Bực Hiền thì Tùng Khổ, Thần thì Thắng khổ, Thánh thì Thọ Khổ, Tiên thì Thoát Khổ, Phật thì Giải Khổ, Thượng Ðế thì Tuyệt Khổ. (Tuyệt là dứt).

    Câu 5-6: Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng, Bộ Lôi Công giải tán trược quang.

    GIẢI NGHĨA

    Trừ: Loại bỏ, làm mất đi.

    Quái khí: Tà khí, chất khí độc.

    Roi thần: Thần là thiêng liêng huyền diệu. Roi thần là cái roi có phép tắc huyền diệu.

    Chớp nhoáng: Lóe sáng lên rồi tắt, rồi lại lóe sáng lên lại tắt, cứ thế tiếp diễn nhiều lần.

    Bộ Lôi Công: Lôi Công là Thần làm Sấm sét. Bộ Lôi Công là cơ quan gồm những vị Thần Sấm sét. Ðứng đầu Bộ Lôi Công là Thái Sư Văn Trọng vào thời Phong Thần, tước hiệu Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn.

    Giải tán: Làm cho tiêu tan mất.

    Trược quang: Trược là dơ bẩn hôi hám; quang là ánh sáng, ở đây có nghĩa là chất khí. Trược quang là chất khí dơ bẩn hôi hám.

    Câu 5-6: Cây roi thần quơ lên lóe sáng để tẩy trừ tà khí, và các Thần Sấm sét trong Bộ Lôi Công làm tiêu tan hết các chất ô trược bám vào Chơn thần.

    Câu 7-8: Cửa Lầu Bát Quái chun ngang, Hỏa tinh Tam muội thiêu tàn oan gia.

    GIẢI NGHĨA

    Lầu Bát Quái: Bát Quái Đài nơi cõi Thiêng Liêng.

    Chun ngang: Chui qua.

    Hỏa tinh: Sao Hỏa, chỉ về lửa.

    Tam-muội: Phiên âm từ tiếng Phạn: Samadhi, nghĩa là Thiền định, Ðại định. Hỏa tinh Tam-muội là phép Thiền định lấy Chơn Hỏa của Ngũ Hành trong cơ thể mà luyện thành lửa để tung ra. Phật giáo gọi phép nầy là: Hỏa diệm Tam-muội hay Hỏa quang Tam muội. Ðức Phật Thích Ca có dùng phép nầy, từ trong thân Ngài xuất ra thứ lửa huyền diệu để hàng phục giống rồng độc.

    Ðức Cao Thượng Phẩm, trong Luật Tam Thể có nói về Hỏa tinh, trích ra sau đây: "Hỏa tinh, tiếng Pháp gọi là Calorie về Y học, còn gọi là Feu Serpent về khoa Thần Linh học, nó chạy luồn trong tủy và tiết ra bởi các dây thần kinh. Muốn luyện Hỏa tinh, phải tịnh tâm, định trí, trụ Thần (Tam-muội) mà chuyển vận, tức là lấy khí Dương vào cơ thể đó vậy. Phải lấy trí mà điều khiển nó."

    Thiêu tàn: Ðốt cho cháy tiêu hết. Thiêu là đốt cháy, tàn là hết. Oan gia: Oan gia là người có thù giận với mình.

    Câu 7-8: Chơn thần chun ngang qua cửa Bát Quái Đài, các Ðấng dùng lửa Tam-muội đốt cháy tiêu hết các oan gia nghiệp chướng.

    Câu 9: Ðạp Thái sơn nhảy qua Ðẩu Suất.

    GIẢI NGHĨA

    Thái sơn: Núi Thái Sơn nơi cõi Huỳnh Thiên.

    Ðẩu Suất: Cung của Ðức Thái Thượng Lão Quân.

    Câu 9: Chơn thần đã có Thần thông, nên đứng trên núi Thái sơn nhảy qua tới Cung Ðẩu Suất.

    Câu 10: Vịn Kim câu đến chực Thiên môn.

    GIẢI NGHĨA

    Vịn: Dựa vào.

    Kim: Vàng.

    Câu: Bắt giữ, dẫn dắt.

    Kim câu: Cái Câu Tiên bài bằng vàng của Ðức Thái Thượng, Giáo chủ Ðạo Tiên, dùng làm lịnh điều khiển các vị Tiên. Người nào cầm Câu Tiên bài ra lịnh thì mọi người phải tuân theo vì đó là lịnh của Giáo chủ.

    Chực: Chờ sẵn.

    Câu 10: Dựa vào Câu Tiên bài của Ðức Thái Thượng Lão Quân, Chơn thần đến chờ sẵn tại cửa Trời.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh Lễ 1952, Kinh TÐ-TÐ 1974, 1975: Ðịnh Kim câu ....
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1936: Dịnh Kim câu ....
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1968: Vịn Kim câu ....
    Ðịnh: Sắp đặt để làm, sắp đặt cho yên.

    Câu 11-12: Chơn thần đã nhập Càn khôn. Thâu quyền độ thế bảo tồn chúng sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Thâu: Ðem vào, ý nói có.

    Ðộ thế: Cứu đời, cứu giúp người đời.

    Bảo tồn: Gìn giữ cho còn.

    Chúng sanh: Các loài sanh vật gồm: Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại.

    Câu 11-12: Chơn thần đã nhập vào Càn Khôn Vũ Trụ (tức là đắc đạo), nên có quyền trở lại cõi trần để cứu giúp người đời và bảo tồn chúng sanh.

  • Kinh Ðệ Ngũ Cửu

    Kinh Ðệ Ngũ Cửu
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ. Ánh sáng hồng chiếu rực rỡ con đường đi trên mây.
    2. Cõi Xích Thiên vội mở ải quan. Cửa ải đi vào từng Trời Xích Thiên vội vàng mở ra.
    3. Thiên Quân diêu động linh phan. Một vị Thiên Quân cầm cây phướn linh đưa qua đưa lại làm hiệu lịnh.
    4. Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh. Cả miền đất Thánh nhộn nhịp đón rước và tiếp đãi.
    5.
    6.
    Ðài Chiếu Giám Cảnh Minh nhẹ bước,
    Xem rõ ràng tội phước căn sinh.
    Chơn hồn nhẹ nhàng bước lên Ðài Chiếu Giám (còn gọi là Minh Cảnh Ðài) để xem lại một cách rõ ràng có bao nhiêu tội và phước mà Chơn hồn đã gây ra trong suốt kiếp sống nơi cõi trần.
    7.
    8.
    Lần vào Cung Ngọc Diệt Hình,
    Khai Kinh Vô Tự đặng nhìn quả duyên.
    Chơn hồn đi lần vào trong đến Cung Ngọc Diệt Hình, mở quyển Vô Tự Kinh thì chữ mới hiện ra, chép rõ tất cả lời nói, hành vi của Chơn hồn trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, nhờ đó Chơn hồn nhìn thấy được phẩm vị của mình.
    9. Ðắc văn sách thông Thiên định Ðịa, Chơn hồn được một quyển sách, học trong đó thì thông suốt các việc trên Trời và định được các việc nơi cõi trần, tức là Chơn hồn đạt được trí huệ và Thần thông.
    10. Phép huyền công trụ nghĩa hóa thân. Các phép huyền công biến hóa thân mình được xử dụng ở nơi điều nghĩa.
    11. Kỵ Kim quang kiến Lão Quân. Ðứng trên lằn ánh sáng vàng để nó đưa mình đến bái kiến Ðức Thái Thượng Lão Quân.
    12. Dựa xe Như Ý, Oai Thần tiễn thăng. Nhờ chiếc xe Như Ý đưa mình đi lên đúng theo ý muốn, có các vị Oai Thần tiễn đưa bay lên.

    (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Ðệ Ngũ Cửu do Ngũ Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Ngũ Nương có nhiệm vụ hướng dẫn các chơn hồn lên từng Trời Xích Thiên. Gọi là Xích Thiên bởi vì ở từng Trời nầy, ánh sáng đều có màu hồng. Xích là màu hồng.

    Câu 1: Ánh hồng chiếu đường mây rỡ rỡ.

    GIẢI NGHĨA

    Ánh hồng: Ánh sáng màu hồng.

    Chiếu: Rọi sáng.

    Ðường mây: Ðường đi trên mây.

    Rỡ rỡ: Sáng ngời, rực rỡ.

    Câu 1: Ánh sáng hồng chiếu rực rỡ con đường đi trên mây.

    Câu 2: Cõi Xích Thiên vội mở ải quan.

    GIẢI NGHĨA

    Xích: Màu hồng.

    Xích Thiên: Từng Trời có ánh sáng màu hồng. Ðó là từng Trời thứ 5 trong Cửu Trùng Thiên.

    Ải quan: Cửa ải, cửa ngõ ra vào đặt tại biên giới của một nước.

    Câu 2: Cửa ải đi vào từng Trời Xích Thiên vội vàng mở ra.

    Câu 3: Thiên Quân diêu động linh phan.

    GIẢI NGHĨA

    Thiên Quân: Vị tướng Trời.

    Diêu động: Dao động, chuyển động đưa qua đưa lại một cách đều đặn.

    Linh phan: Cây Phướn linh. Phan là cây Phướn. Linh là thiêng liêng.

    Câu 3: Một vị Thiên Quân cầm cây phướn linh đưa qua đưa lại làm hiệu lịnh.

    Câu 4: Cả miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.

    GIẢI NGHĨA

    Thánh vức: Vức tức là Vực, là một vùng đất. Thánh vức là vùng đất Thánh. Thánh vức đồng nghĩa với Thánh địa.

    Nhộn nhàng: Nhộn nhịp, rộn rịp, đông đảo nhiều người vui vẻ lăng xăng công việc.

    Tiếp nghinh: Ðón rước tiếp đãi.

    Câu 4: Cả miền đất Thánh nhộn nhịp đón rước và tiếp đãi.

    Câu 5-6: Ðài Chiếu Giám Cảnh Minh nhẹ bước, Xem rõ ràng tội phước căn sinh.

    GIẢI NGHĨA

    Ðài: Nơi xây cao lên.

    Chiếu: Soi rọi.

    Giám: Tấm kiếng, gương soi.

    Ðài Chiếu Giám: là một cái đài trên đó có đặt một tấm kiếng lớn mà phép huyền diệu Thiêng Liêng cho thấy trở lại tất cả việc làm, lời nói của mỗi Chơn hồn trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, khi Chơn hồn đứng trước tấm kiếng ấy, để cây Cân Công Bình Thiêng Liêng cân tội phước mà định phận: Thăng hay đọa. Ðài Chiếu Giám còn được gọi là Minh Cảnh Ðài. Minh là sáng, Cảnh còn đọc là Kính: Tấm kiếng dùng làm gương soi.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nói về Minh Cảnh Ðài như sau: "Ðài ấy là Tòa Tam Giáo, chúng ta không thấy cái trạng thái hình thể nó ra sao. Khi chúng ta đến, hào quang chiếu diệu xông lên như ngọn lửa vậy. Lửa ấy chẳng phải lửa thật, nó là hào quang, cho ta thấy trước rồi biến mất đi, kế thấy một cây Cân Công Bình hiện ra trước mắt chúng ta, rồi cũng từ từ biến mất. Chúng ta thấy mình chẳng khác nào như khán giả đứng trước đài kia coi cả kiếp sanh của chúng ta, không điều gì sót, phải chăng nơi ấy Kinh Phật gọi là Minh Cảnh Ðài? Trước mặt chúng ta, khi trước chúng ta làm những việc gì, nay nó chiếu lại cho xem, chẳng khác gì như mình xem tuồng hát bóng vậy. Mỗi khi mình hành động gì trong kiếp sanh khi xưa, hôm nay đều ngó thấy trước mặt, và Cân ấy tùy theo nên hư tội phước mà hiện tượng ra hết thảy, quyết đoán một cách công bình, không sai chút nào hết. Phải chăng đó là huyền bí của Tòa Thiêng Liêng ấy? Vậy hành tàng đã có trước mặt, Luật Tam giáo chẳng hề sai chạy. Kiếp sanh đã làm gì, Ðời hay Ðạo, mặt Thiêng Liêng không sót một điều."

    Căn sinh: Căn là gốc rễ, sinh là sống. Căn sinh là chỉ tất cả lời nói, việc làm trong suốt một kiếp sống nơi cõi trần.

    Câu 5-6: Chơn hồn nhẹ nhàng bước lên Ðài Chiếu Giám (còn gọi là Minh Cảnh Ðài) để xem lại một cách rõ ràng có bao nhiêu tội và phước mà Chơn hồn đã gây ra trong suốt kiếp sống nơi cõi trần.

    Câu 7-8: Lần vào Cung Ngọc Diệt Hình, Khai Kinh Vô Tự đặng nhìn quả duyên.

    GIẢI NGHĨA

    Lần vào: Ði lần vào trong.

    Khai: Mở ra.

    Kinh Vô Tự: Quyển Kinh không chữ. Ðây là một quyển Kinh rất huyền diệu nơi cõi thiêng liêng, bởi vì khi Chơn hồn đến đứng trước quyển Kinh ấy, lật ra xem thì chữ bắt đầu hiện ra trên các trang giấy trắng, thấy rõ tên tuổi và tất cả việc làm trong kiếp sanh của Chơn hồn nơi cõi trần.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, nói về Vô Tự Kinh như sau:

    "Nếu khi vô được rồi, thân nhân chúng ta dắt chúng ta đến một Cung có một quyển sách Thiên Thơ gọi là Vô Tự Kinh, để trước mặt chúng ta, dở ra xem, thấy tên mình và kiếp sanh của mình đã làm gì, nó hiện ra đủ hết trong quyển Thiên Thơ ấy. Vị Chưởng quản Cung ấy gọi là Nam Tào Bắc Ðẩu. Nơi Nam Tào Bắc Ðẩu, không có ai trị ta hết, chính ta trị lấy ta. Sau khi xem xong quyển Vô Tự Kinh, ta thấy hết hành tàng của ta thì ta định kiếp cho ta, chính Chơn thần định án ta, chớ không ai định án ta hết, nên dầu ta muốn chối tội cũng không được. Cái bí mật vô đối cầm quyền cả Càn Khôn Vũ Trụ là như vậy: Chính mình làm tòa xử lấy mình."

    Quả duyên: Quả là cái kết quả, duyên là cái sức bổ trợ cho cái Nhân thành thành cái Quả. Quả duyên là cái kết quả do sự bổ trợ của cái duyên mà đạt được, tức là cái phẩm vị đạt được do công đức tu hành.

    Câu 7-8: Chơn hồn đi lần vào trong đến Cung Ngọc Diệt Hình, mở quyển Vô Tự Kinh thì chữ mới hiện ra, chép rõ tất cả lời nói, hành vi của Chơn hồn trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, nhờ đó Chơn hồn nhìn thấy được phẩm vị của mình.

    Câu 9: Ðắc văn sách thông Thiên định Ðịa,

    GIẢI NGHĨA

    Ðắc: Ðược.

    Văn sách: Văn là lời văn, sách là quyển sách. Văn sách là lời văn viết trong quyển sách.

    Thông Thiên định Ðịa: Thông suốt các việc ở trên Trời, định rõ các việc ở dưới đất tức là quyết định được các việc nơi cõi trần. Như vậy Chơn hồn đã có được trí huệ và Thần thông.

    Câu 9: Chơn hồn được một quyển sách, học trong đó thì thông suốt các việc trên Trời và định được các việc nơi cõi trần, tức là Chơn hồn đạt được trí huệ và Thần thông.

    Câu 10: Phép huyền công trụ nghĩa hóa thân.

    GIẢI NGHĨA

    Phép huyền công: Công phu tu luyện đạt được các phép tắc biến hóa huyền diệu. Thí dụ như Tề Thiên Ðại Thánh trong Truyện Tây Du học được Thất thập nhị Huyền công, tức là 72 phép biến hóa huyền diệu.

    Trụ nghĩa: Trụ là ở, còn đấy; Nghĩa là điều phải đúng theo đạo lý. Trụ nghĩa là ở nơi điều nghĩa.

    Hoá thân: Biến hóa thân mình bằng cách dùng phép thuật huyền diệu.

    Câu 10: Các phép huyền công biến hóa thân mình được xử dụng ở nơi điều nghĩa.

    Câu 11: Kỵ Kim quang kiến Lão Quân.

    GIẢI NGHĨA

    Kỵ: Cỡi.

    Kim quang: Lằn ánh sánh vàng.

    Kỵ Kim quang: Cỡi trên lằn ánh sáng vàng, ý nói đứng trên lằn ánh sáng vàng để nó đưa đi.

    Kiến: Thấy, gặp.

    Câu 11: Ðứng trên lằn ánh sáng vàng để nó đưa mình đến bái kiến Ðức Thái Thượng Lão Quân.

    Câu 12: Dựa xe Như Ý, Oai Thần tiễn thăng.

    GIẢI NGHĨA

    Xe Như Ý: Chiếc xe Tiên, mà người ngồi trên đó muốn đi đến đâu thì nó sẽ đưa đến đó đúng như ý muốn.

    Oai Thần: Các vị Thần oai vệ.

    Tiễn thăng: Ðưa tiễn bay lên. Tiễn là đưa lên đường, thăng là bay lên.

    Câu 12: Nhờ chiếc xe Như Ý đưa mình đi lên đúng theo ý muốn, có các vị Oai Thần tiễn đưa bay lên.

  • Kinh Ðệ Lục Cửu

    Kinh Ðệ Lục Cửu
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Bạch Y Quan mở đàng rước khách,
    Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.
    Nơi Bạch Y Quan, mở cửa đón rước Chơn hồn. Chơn hồn nhẹ nhàng bước xuống rời khỏi chiếc xe Tiên để đi vào cõi Kim Thiên.
    3.
    4.
    Vào Cung Vạn Pháp xem qua,
    Cho tường cựu nghiệp mấy tòa thiên nhiên.
    Chơn hồn được đưa vào Cung Vạn Pháp để xem qua cho biết rõ ràng sự nghiệp cũ của mình được ghi lại trong mấy Tòa thiên nhiên.
    5. Cung Lập Khuyết tìm duyên định ngự. Tại Cung Lập Khuyết, Chơn hồn tìm thấy ngôi vị cũ của mình, định ngồi lên (nhưng chưa được).
    6. Lãnh Kim sa đặng dự Như Lai. Chơn hồn lãnh một hột Kim sa đặng đi gặp Phật.
    7.
    8.
    Minh Vương Khổng Tước cao bay,
    Ðem Chơn thần đến tận Ðài Huệ Hương.
    Vị Minh Vương Khổng Tước chở Chơn thần bay lên cao, đem đến tận Ðài Huệ Hương.
    9.
    10.
    Mùi ngào ngọt thơm luôn Thánh thể,
    Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang.
    Mùi thơm ngào ngọt của Ðài Huệ Hương xông thơm Chơn thần, tẩy trừ hết sạch các mùi dơ bẩn hôi hám lẫn vào trong Khí Sanh quang.
    11.
    12.
    Thiên thiều trổi tiếng nhặt khoan,
    Ðưa linh thẳng đến Niết Bàn mới thôi.
    Khúc nhạc thiều của Trời khởi lên lúc nhanh lúc chậm, đưa Chơn linh thẳng lên đến cõi Niết Bàn mới thôi.

    (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Ðệ Lục Cửu do Lục Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Lục Nương có nhiệm vụ hướng dẫn các Chơn hồn từ từng Trời Xích Thiên lên từng Trời Kim Thiên. Kim Thiên là từng Trời thứ 6 trong Cửu Trùng Thiên.

    Câu 1-2: Bạch Y Quan mở đàng rước khách, Cõi Kim Thiên nhẹ tách Tiên xa.

    GIẢI NGHĨA

    Bạch Y Quan: Một địa danh nơi từng Trời Kim Thiên.

    Tiên xa: Chiếc xe Tiên, cũng gọi là xe Như Ý.

    Câu 1-2: Nơi Bạch Y Quan, mở cửa đón rước Chơn hồn. Chơn hồn nhẹ nhàng bước xuống rời khỏi chiếc xe Tiên để đi vào cõi Kim Thiên.

    Câu 3-4: Vào Cung Vạn Pháp xem qua, Cho tường cựu nghiệp mấy tòa thiên nhiên.

    GIẢI NGHĨA

    Tường: Rõ ràng, biết rõ.

    Cựu: Xưa, cũ.

    Cựu nghiệp: Sự nghiệp cũ, tức là những sự nghiệp đã tạo ra trong nhiều kiếp sống trước nơi cõi trần.

    Tòa: Ngôi nhà lớn.

    Thiên nhiên: Cái mà Trời làm ra như thế, không phải do sức người tạo ra.

    Tòa thiên nhiên: Ngôi nhà lớn do Trời tạo ra như thế, để ghi lại sự nghiệp của mỗi Chơn hồn đã tạo ra trong các kiếp sống nơi cõi trần.

    Câu 3-4: Chơn hồn được đưa vào Cung Vạn Pháp để xem qua cho biết rõ ràng sự nghiệp cũ của mình được ghi lại trong mấy Tòa thiên nhiên.

    Câu 5: Cung Lập Khuyết tìm duyên định ngự.

    GIẢI NGHĨA

    Duyên: Cái mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước. Ở đây ý nói ngôi vị cũ của mình nơi cõi thiêng liêng.

    Ðịnh: Có ý làm.

    Ngự: Ngồi lên một cách trang trọng.

    Câu 5: Tại Cung Lập Khuyết, Chơn hồn tìm thấy ngôi vị cũ của mình, định ngồi lên (nhưng chưa được).

    Câu 6: Lãnh Kim sa đặng dự Như Lai.

    GIẢI NGHĨA

    Kim sa: Kim là vàng, sa là hột cát. Kim sa là hột cát vàng. Những hột cát vàng nầy do Phép Phật tạo thành. Kim Sa Ðại Ðiện là tòa nhà lớn làm bằng cát vàng tại kinh đô Cực Lạc Thế Giới, là nơi ngự của Ðức Phật Thích Ca.

    Như Lai: Một trong 10 danh hiệu của Phật.

    Câu 6: Chơn hồn lãnh một hột Kim sa đặng đi gặp Phật.

    Câu 7-8: Minh Vương Khổng Tước cao bay, Ðem Chơn thần đến tận Ðài Huệ Hương.

    GIẢI NGHĨA

    Minh Vương Khổng Tước: Minh Vương là vua sáng, Khổng Tước là con công.

    Theo Phật Học Từ Ðiển, Minh Vương là những vị Tôn giả hầu cận Ðức Phật, thọ giáo lệnh của Ðức Phật, hiện thân hàng phục bọn ác ma. Các Tôn giả nầy có trí huệ và oai đức, đánh phá hết thảy các ma chướng, ủng hộ các nhà tu hành chơn thật. Tuy là người hầu cận Ðức Phật, nhưng vâng mệnh cầm giữ giáo lệnh thì quyền uy như một vị Minh Vương.

    Minh Vương Khổng Tước là vị Tôn giả hầu cận Ðức Phật Chuẩn Ðề (Chuẩn Ðề Bồ Tát) mà nguyên căn là một con công, sanh vào thời Khai Thiên Lập Ðịa, được Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát thâu phục vào thời Phong Thần. Khi Ðức Chuẩn Ðề xuất du thì vị tôn giả nầy hiện lại nguyên hình là một con công màu đỏ, xòe 2 cánh chiếu hào quang ngũ sắc, chở Ðức Chuẩn Ðề bay đi.

    Câu 7-8: Vị Minh Vương Khổng Tước chở Chơn thần bay lên cao, đem đến tận Ðài Huệ Hương.

    Câu 9-10: Mùi ngào ngọt thơm luôn Thánh thể, Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang.

    GIẢI NGHĨA

    Mùi ngào ngọt: Mùi rất thơm.

    Thánh thể: Thánh là thiêng liêng huyền diệu, thể là thân thể. Thánh thể là xác thân thiêng liêng, tức là Chơn thần.

    Trừ: Làm cho mất đi.

    Tiêu tàn: Làm tiêu mất hẳn.

    Ô uế: Ô là dơ bẩn, uế là hôi hám. Ô uế là dơ bẩn hôi hám.

    Sinh quang: Khí Sanh quang, chất khí để nuôi dưỡng sự sống cho các loài sanh vật trong khắp Càn Khôn Vũ Trụ.

    Câu 9-10: Mùi ngào ngọt thơm luôn Thánh thể, Trừ tiêu tàn ô uế sinh quang. Nghĩa là: Mùi thơm ngào ngọt của Ðài Huệ Hương xông thơm Chơn thần, tẩy trừ hết sạch các mùi dơ bẩn hôi hám lẫn vào trong Khí Sanh quang.

    Câu 11-12: Thiên thiều trổi tiếng nhặt khoan, Ðưa linh thẳng đến Niết Bàn mới thôi.

    GIẢI NGHĨA

    Thiên thiều: Thiều là nhạc thiều, loại nhạc cung đình, nghe rất réo rắt êm tai, khiến cho tâm hồn người nghe trở nên cao thượng. Tương truyền Nhạc thiều do vua Thuấn học được của Bà Nữ Oa. Thiên thiều là nhạc thiều của Trời.

    Trổi tiếng nhặt khoan: Khởi lên tiếng nhạc khi nhanh khi chậm, khi nhặt khi lơi.

    Ðưa linh: Ðưa Chơn linh đi lên.

    Niết Bàn: Cõi Phật, cõi Cực Lạc Thế Giới hoàn toàn hạnh phúc.

    Câu 11-12: Khúc nhạc thiều của Trời khởi lên lúc nhanh lúc chậm, đưa Chơn linh thẳng lên đến cõi Niết Bàn mới thôi.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh Lễ in bên Pháp 1952: Tiêu thiều.
    * Kinh TÐ-TÐ năm 1936, 1968, 1974, 1975: Thiên thiều.
    Tiêu thiều: Khúc nhạc thiều thổi bằng ống sáo.

  • Kinh Ðệ Thất Cửu

    Kinh Ðệ Thất Cửu
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Nhẹ phơ phới dồi dào không khí,
    Hạo Nhiên Thiên đã chí môn quan.
    Chơn hồn nhẹ nhàng bay phơi phới trong bầu không khí dồi dào khí sanh quang, đã đến cái cửa lớn đi vào từng Trời Hạo Nhiên Thiên.
    3.
    4.
    Ðẹp xinh cảnh vật đòi ngàn.
    Hào quang chiếu diệu khai đàng thăng Thiên.
    Cảnh vật rừng núi chập chồng thật là xinh đẹp. Ánh hào quang chiếu sáng rực rỡ mở đường bay lên Trời.
    5.
    6.
    Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo Hóa,
    Kiến Chuẩn Ðề thạch xá giải thi.
    Cung Chưởng Pháp chưởng quản Pháp luật của Càn Khôn Vũ Trụ, nên căn cứ trên luật pháp, xây dựng quyền hành của Ðức Chí Tôn. Chơn hồn đến gặp Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát đang giảng giải Thiên thơ trong ngôi nhà đá.
    7.
    8.
    Dà Lam dẫn nẻo Tây Qui,
    Kim chung mở lối kịp kỳ kỵ sen.
    Ðức Phật Già Lam dẫn đường đi đến Tây Qui, có tiếng chuông vàng mở đường cho Chơn hồn kịp bước lên bông sen thần để nó đưa đi.
    9.
    10.
    Ðộng Phổ Hiền Thần Tiên hội hiệp.
    Dỡ kim cô đưa tiếp linh quang.
    Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư vị Thần Tiên hội họp trong động đá. Dỡ cái kim cô ra để dưa Chơn linh tiếp tục bay lên.
    11.
    12.
    Im lìm kìa cõi Niết Bàn,
    Lôi Âm trống thúc lên đàng thượng Thiên.
    Kìa là cõi Niết Bàn hoàn toàn yên lặng, tiếng trống Lôi Âm thúc giục Chơn hồn lên đường đi lên Trời.

    (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Ðệ Thất Cửu do Thất Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Thất Nương có nhiệm vụ dẫn dắt các Chơn hồn từ Kim Thiên đi lên từng Trời Hạo Nhiên Thiên, là từng thứ 7 trong Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát và Ðức Phổ Hiền Bồ Tát. Ngoài ra Thất Nương còn có nhiệm vụ giáo hóa các nữ tội hồn nơi cõi Âm Quang.

    Câu 1-2: Nhẹ phơ phới dồi dào không khí, Hạo Nhiên Thiên đã chí môn quan.

    GIẢI NGHĨA

    Nhẹ phơ phới: Nhẹ phơi phới, nhẹ nhàng lắm.

    Dồi dào không khí: Bầu không khí dồi dào khí sanh quang, làm cho Chơn thần được đầy đủ sức sống và nhẹ nhàng.

    Ðã chí: Ðã đến.

    Môn quan: Môn là cái cửa, quan là cửa lớn. Môn quan là cái cửa lớn đi vào một từng Trời.

    Câu 1-2: Chơn hồn nhẹ nhàng bay phơi phới trong bầu không khí dồi dào khí sanh quang, đã đến cái cửa lớn đi vào từng Trời Hạo Nhiên Thiên.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh Lễ, Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968, 1974: Nhẹ phơ phới...
    * Kinh TÐ-TÐ 1975: Nhẹ phơi phới...
    Phơ phới đồng nghĩa với Phơi phới.

    Câu 3-4: Ðẹp xinh cảnh vật đòi ngàn. Hào quang chiếu diệu khai đàng thăng Thiên.

    GIẢI NGHĨA

    Ðòi ngàn: Ðòi là nhiều, ngàn là rừng núi. Ðòi ngàn là rừng núi chập chồng.

    Hào quang: Hào là cái lông dài và nhọn, quang là ánh sáng. Hào quang là ánh sáng tỏa ra từ thân thể của một Ðấng thiêng liêng.

    Chiếu diệu: Chiếu sáng rực rỡ.

    Khai đàng: Mở đường.

    Thăng Thiên: Bay lên Trời.

    Câu 3-4: Cảnh vật rừng núi chập chồng thật là xinh đẹp. Ánh hào quang chiếu sáng rực rỡ mở đường bay lên Trời.

    Câu 5-6: Cung Chưởng Pháp xây quyền Tạo Hóa, Kiến Chuẩn Ðề thạch xá giải thi.

    GIẢI NGHĨA

    Cung Chưởng Pháp: Cơ quan chưởng quản về pháp luật của Trời, giữ gìn an ninh và trật tự trong Càn Khôn Vũ Trụ. Cung Chưởng Pháp thuộc từng Trời Hạo Nhiên Thiên, nên từng Trời nầy được gọi là Hạo Nhiên Pháp Thiên.

    Xây quyền: Xây dựng quyền hành căn cứ trên Luật pháp.

    Tạo Hóa: chỉ Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

    Kiến: Thấy, gặp.

    Chuẩn Ðề: Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát.

    Thạch xá: Thạch là đá, xá là nhà. Thạch xá là ngôi nhà bằng đá.

    Giải thi: Giải là cắt nghĩa cho rõ ra, Thi là do chữ Thơ, Thư nói trại ra, nên Thi là quyển sách. Ở đây Thi là Thiên Thi, là quyển sách của Trời ghi chép Thiên điều, tức là ghi chép Luật pháp của Trời. Giải thi là giảng giải Thiên thơ.

    GHI CHÚ: Chữ Thi ở đây nằm trong chữ Thiên Thi trong các câu Kinh: "Tam Kỳ khai hiệp Thiên Thi." (Phật Mẫu Chơn Kinh)

    "Hiệp chúng đẳng chư Phật tạo định Thiên Thi." (Di Lạc Chơn Kinh)

    Câu 5-6: Cung Chưởng Pháp chưởng quản Pháp luật của Càn Khôn Vũ Trụ, nên căn cứ trên luật pháp, xây dựng quyền hành của Ðức Chí Tôn. Chơn hồn đến gặp Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát đang giảng giải Thiên thơ trong ngôi nhà đá.

    Câu 7-8: Dà Lam dẫn nẻo Tây Qui, Kim chung mở lối kịp kỳ kỵ sen.

    GIẢI NGHĨA

    Dà Lam: còn viết là Già Lam, là vị Phật gọi là Phật Già Lam.

    Dẫn nẻo: Dẫn đường.

    Tây Qui: Một địa danh nơi từng Hạo Nhiên Thiên.

    Kim chung: Cái chuông bằng vàng.

    Mở lối: Mở đường.

    Kỵ sen: Kỵ là cỡi lên, ý nói đứng trên; Kỵ sen là đứng trên cái bông sen thần (Liên thần) để nó đưa mình bay lên.

    Câu 7-8: Ðức Phật Già Lam dẫn đường đi đến Tây Qui, có tiếng chuông vàng mở đường cho Chơn hồn kịp bước lên bông sen thần để nó đưa đi.

    Câu 9-10: Ðộng Phổ Hiền Thần Tiên hội hiệp. Dỡ kim cô đưa tiếp linh quang.

    GIẢI NGHĨA

    Ðộng Phổ Hiền: Cái động đá, nơi Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cư ngụ.

    Kim cô: Kim là vàng, cô là cái đai. Kim cô là cái đai bằng vàng, đội trên đầu.

    Dỡ: Lấy ra.

    Dỡ kim cô: Lấy cái vòng kim cô ra khỏi đầu.

    Linh quang: Ðiểm linh quang, đó là Chơn linh hay Linh hồn.

    Câu 9-10: Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cùng chư vị Thần Tiên hội họp trong động đá. Dỡ cái kim cô ra để dưa Chơn linh tiếp tục bay lên.

    Câu 11-12 Im lìm kìa cõi Niết Bàn, Lôi Âm trống thúc lên đàng thượng Thiên.

    GIẢI NGHĨA

    Lôi Âm: Lôi là sấm, âm là tiếng. Lôi Âm trống tức là Lôi Âm Cổ, cái trống Lôi Âm, vì tiếng trống phát ra lớn như tiếng sấm.

    Thúc là thúc giục.

    Lôi Âm trống thúc là tiếng trống Lôi Âm thúc giục lên đường.

    Thượng Thiên: Thượng là đi lên, Thiên là Trời. Thượng Thiên là đi lên Trời.

    Câu 11-12: Kìa là cõi Niết Bàn hoàn toàn yên lặng, tiếng trống Lôi Âm thúc giục Chơn hồn lên đường đi lên Trời.

    KHẢO DỊ:
    * Kinh TÐ-TÐ 1936, Kinh Lễ 1952: thượng tiêu.
    * Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974, 1975: thượng Thiên.
    Tiêu từng Trời, Thượng tiêu là đi lên các từng Trời.

  • Kinh Ðệ Bát Cửu

    Kinh Ðệ Bát Cửu
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Hơi Tiên tửu nực nồng thơm ngọt,
    Phi Tưởng Thiên để gót tới nơi.
    Khi đặt chơn tới từng Trời Phi Tưởng Thiên thì đã cảm thấy mùi rượu Tiên nực nồng thơm ngọt.
    3.
    4.
    Mùi trần khi đã xa khơi,
    Say sưa bầu khí bồi hồi chung phong.
    Chơn hồn đã đi khỏi rất xa mùi uế trược của cõi trần, cảm thấy say sưa trong bầu không khí nực nồng hơi Tiên tửu,và cảm thấy bồi hồi khi nghe tiếng chuông theo gió đưa lại.
    5. Cung Tận Thức thần thông biến hóa. Nơi Cung Tận Thức, các phép thần thông biến hóa rất huyền diệu.
    6. Phổ Ðà Sơn giải quả Từ Hàng. Nơi Phổ Ðà Sơn, Công Chúa Diệu Thiện tu hành đắc đạo, nên đã cởi bỏ được cái quả kiếp của Từ Hàng Bồ Tát.
    7.
    8.
    Cỡi Kim Hẩu đến Tịch san,
    Ðẩu vân nương phép Niết Bàn đến xem.
    Chơn hồn cỡi lên con Kim Mao Hẩu để nó đưa đến một hòn núi gọi là Tịch san, rồi nhờ phép Ðẩu vân, Chơn hồn nhảy vọt bay lên xem cõi Niết Bàn.
    9.
    10.
    Cung Diệt Bửu ngọc rèm đã xủ,
    Nghiệp hữu hình tượng đủ vô vi.
    Nơi Cung Diệt Bửu, tấm rèm ngọc đã buông xuống. Sự nghiệp hữu hình của mỗi người nơi cõi trần hiện ra đủ hết nơi cõi thiêng liêng.
    11.
    12.
    Hồ Tiên vội rót tức thì,
    Nước Cam lồ rửa ai bi kiếp người.
    Lấy bầu rượu Tiên rót ra tức thì, dùng nước Cam lồ rửa sạch những nỗi bi ai của kiếp người.

    (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Ðệ Bát Cửu do Bát Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho. Bát Nương có nhiệm vụ dẫn dắt các Chơn hồn từ Hạo Nhiên Thiên đi lên từng Trời Phi Tưởng Thiên, là từng thứ 8 trong Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của Ðức Từ Hàng Bồ Tát.

    Câu 1-2: Hơi Tiên tửu nực nồng thơm ngọt, Phi Tưởng Thiên để gót tới nơi.

    GIẢI NGHĨA

    Tiên tửu: Rượu Tiên, loại rượu do các vị Tiên dùng huyền diệu Tiên gia chế thành, có mùi vị thơm ngọt.

    Nực nồng: Mùi rượu mạnh bốc lên nhiều.

    Ðể gót: Ðặt chơn tới.

    Câu 1-2: Khi đặt chơn tới từng Trời Phi Tưởng Thiên thì đã cảm thấy mùi rượu Tiên nực nồng thơm ngọt.

    Câu 3-4: Mùi trần khi đã xa khơi, Say sưa bầu khí bồi hồi chung phong.

    GIẢI NGHĨA

    Mùi trần: Cái mùi ô uế của cõi trần.

    Xa khơi: Xa lắm.

    Say sưa: Ở trạng thái ngây ngất vì tác dụng của rượu.

    Bầu khí: Bầu không khí.

    Bồi hồi: Xao xuyến trong lòng.

    Chung phong: Chung là tiếng chuông, phong là gió. Chung phong là tiếng chuông theo gió đưa lại.

    Câu 3-4: Chơn hồn đã đi khỏi rất xa mùi uế trược của cõi trần, cảm thấy say sưa trong bầu không khí nực nồng hơi Tiên tửu,và cảm thấy bồi hồi khi nghe tiếng chuông theo gió đưa lại.

    Câu 5: Cung Tận Thức thần thông biến hóa.

    GIẢI NGHĨA

    Thần thông: Thần là thiêng liêng mầu nhiệm; thông là suốt tới, không chi ngăn trở nổi. Thần thông là phép biến hóa huyền diệu, đạt được do công phu tu luyện lâu dài. Theo Phật giáo, khi những vị Tỳ Kheo tu đắc quả A-La-Hán (đối phẩm Thiên Thánh) thì đạt được 6 phép Thần thông, gọi là Lục thông, kể ra:

    - Thiên Nhãn thông: Thấy được những vật rất xa.
    - Thiên Nhĩ thông: Nghe được tiếng nói rất xa.
    - Túc mạng thông: Biết được tất cả chuyện đời quá khứ, hiện tại và tương lai.
    - Tha tâm thông: Biết tư tưởng trong tâm của người.
    - Thần túc thông: Phép đi khắp nơi trong nháy mắt.
    - Lậu tận thông: Phép trong sạch hoàn toàn.

    Câu 5: Nơi Cung Tận Thức, các phép thần thông biến hóa rất huyền diệu.

    Câu 6: Phổ Ðà Sơn giải quả Từ Hàng.

    GIẢI NGHĨA

    Phổ Ðà Sơn: Núi Phổ Ðà ở biển Nam Hải nơi cõi thiêng liêng, là nơi Công Chúa Diệu Thiện tu hành đắc đạo thành Quan Thế Âm Bồ Tát. Công Chúa Diệu Thiện là một chiết linh của Ðức Từ Hàng Bồ Tát giáng trần.

    Giải quả: Cởi bỏ cái quả kiếp.

    Từ Hàng: Ðức Từ Hàng Bồ Tát.

    Giải quả Từ Hàng: Cởi bỏ cái quả kiếp của Từ Hàng Bồ Tát. Cái quả kiếp ấy là những oan trái của Từ Hàng Bồ Tát, nay Công Chúa Diệu Thiện phải gánh trả. Khi Công Chúa Diệu Thiện tu đắc đạo thành Bồ Tát thì cái quả kiếp của Từ Hàng Bồ Tát đã được cởi bỏ.

    Câu 6: Nơi Phổ Ðà Sơn, Công Chúa Diệu Thiện tu hành đắc đạo, nên đã cởi bỏ được cái quả kiếp của Từ Hàng Bồ Tát.

    Câu 7-8: Cỡi Kim Hẩu đến Tịch san, Ðẩu vân nương phép Niết Bàn đến xem.

    GIẢI NGHĨA

    Kim Hẩu: là con Kim Mao Hẩu, kim là vàng, mao là lông, hẩu là một loại sư tử, nói theo âm tiếng Tàu. Kim Mao Hẩu là con sư tử lông vàng, một loại thú linh nơi cõi Thiêng Liêng. Ðức Từ Hàng Bồ Tát, mỗi khi du hành, thường cỡi Kim Mao Hẩu.

    Khi Ðức Phạm Hộ Pháp trấn thần 8 con Kim Mao Hẩu nơi 4 cầu thang lên Cửu Trùng Đài và Bát Quái Đài Tòa Thánh, Ngài có giải thích rằng: "Con Kim Mao Hẩu rất mạnh khỏe, tượng trưng cái năng lực tinh thần của người tu, nhờ nó mà qua các từng Trời và trở về cùng Ðức Chí Tôn."

    Ðẩu vân: Ðẩu là thình lình vọt lên, vân là mây.

    Ðẩu vân là phép nhảy vọt đi rất lẹ trên mây. Trong truyện Tây Du, Tề Thiên Ðại Thánh học được phép Cân Ðẩu vân (Cân là gân), vận gân cốt và niệm chú rồi nhảy vọt bay đi rất nhanh trên mây, mỗi Cân Ðẩu vân đi được 18000 dặm.

    Nương phép: Dựa vào phép thuật mầu nhiệm.

    Câu 7-8: Chơn hồn cỡi lên con Kim Mao Hẩu để nó đưa đến một hòn núi gọi là Tịch san, rồi nhờ phép Ðẩu vân, Chơn hồn nhảy vọt bay lên xem cõi Niết Bàn.

    Câu 9-10: Cung Diệt Bửu ngọc rèm đã xủ, Nghiệp hữu hình tượng đủ vô vi.

    GIẢI NGHĨA

    Ngọc rèm: Tấm rèm bằng ngọc. Rèm là cái tấm để treo che phía trên cửa.

    Xủ: Buông xuống.

    Nghiệp hữu hình: Sự nghiệp hữu hình tạo ra nơi cõi trần.

    Vô vi: Vô hình. Cõi Vô vi là cõi thiêng liêng vô hình.

    Câu 9-10: Nơi Cung Diệt Bửu, tấm rèm ngọc đã buông xuống. Sự nghiệp hữu hình của mỗi người nơi cõi trần hiện ra đủ hết nơi cõi thiêng liêng.

    Câu 11-12: Hồ Tiên vội rót tức thì, Nước Cam lồ rửa ai bi kiếp người.

    GIẢI NGHĨA

    Hồ Tiên: Hồ là cái bầu, Hồ Tiên là cái bầu đựng rượu Tiên. Rượu Tiên hay Tiên tửu có tác dụng rất huyền diệu, giống như nước Cam lồ, nên khi dùng để uống thì gọi là Tiên tửu, khi các vị Tiên dùng làm phép thì gọi là nước Cam lồ.

    Ai bi: Bi ai, buồn rầu thê thảm.

    Câu 11-12: Lấy bầu rượu Tiên rót ra tức thì, dùng nước Cam lồ rửa sạch những nỗi bi ai của kiếp người.

  • Kinh Ðệ Cửu Cửu

    Kinh Ðệ Cửu Cửu
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Vùng thoại khí Bát hồn vận chuyển.
    Tạo Hóa Thiên sanh biến vô cùng.
    Vùng thoại khí Bát hồn vận chuyển, Tạo Hóa Thiên sanh biến vô cùng, nghĩa là: Ðức Phật Mẫu ở từng Trời Tạo Hóa Thiên, vận chuyển Bát hồn trong vùng thoại khí (Khí Sanh quang), biến hóa vô cùng để tạo thành chúng sanh.
    3.
    4.
    Hội Bàn Ðào Diêu Trì Cung,
    Phục sinh đào hạnh, rượu hồng thưởng ban.
    Ðức Phật Mẫu mở Hội Bàn Ðào nơi Diêu Trì Cung, đãi tiệc là những trái đào và trái hạnh, vì đó là 2 thứ trái quí nơi cõi Tiên có đặc tính phục hồi sự sống, và Ðức Phật Mẫu ban thưởng cho uống rượu Tiên.
    5. Cung Bắc Ðẩu xem căn quả số. Chơn hồn vào Cung Bắc Ðẩu xem căn quả cho biết số phận của mình.
    6. Học triều nghi vào ở Linh Tiêu. Chơn hồn phải học tập các phép tắc và lễ nghi nơi triều đình để vào Linh Tiêu Ðiện chầu lạy Ðức Chí Tôn.
    7.
    8.
    Ngọc Hư Cung sắc lệnh kêu,
    Thưởng phong, trừng trị, phân điều đọa thăng.
    Nơi Ngọc Hư Cung, Sắc lệnh của Ðức Chí Tôn gọi Chơn hồn vào để các Ðấng xem xét công và tội, phân ra: có công thì được phong thưởng và siêu thăng, có tội thì bị trừng phạt và bị đọa đày.
    9.
    10.
    Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất,
    Tạo hình hài các bậc nguyên nhân.
    Nơi Kim Bàn trong Diêu Trì Cung, Ðức Phật Mẫu chứa rất nhiều nguyên chất. Phật Mẫu dùng các nguyên chất nầy để tạo Chơn thần cho các nguyên nhân.
    11.
    12.
    Cung Trí Giác trụ Tinh Thần,
    Huờn Hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên.
    Hai Câu kinh nầy, Ðức Phật Mẫu nói về Phép Luyện Ðạo, luyện cho Tam Bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt, đắc đạo thành Tiên tại thế: Nơi Cung Trí Giác, luyện cho Tam Bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt thì tạo được Chơn thần huyền diệu, đắc đạo thành Tiên, thoát khỏi cõi trần, lên đường về Tiên cảnh.

    (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Ðệ Cửu Cửu gồm 12 câu thơ, trong đó, 8 câu thơ đầu do Cửu Nương Diêu Trì Cung giáng cơ ban cho, và 4 câu thơ cuối do Ðức Phật Mẫu giáng cơ viết tiếp ban cho trọn bài.

    Cửu Nương có nhiệm vụ dẫn dắt các Chơn hồn đến từng Trời Tạo Hóa Thiên để bái kiến Ðức Phật Mẫu. Tạo Hóa Thiên là từng Trời thứ 9, cao nhất trong Cửu Trùng Thiên.

    Câu 1-2: Vùng thoại khí Bát hồn vận chuyển. Tạo Hóa Thiên sanh biến vô cùng.

    GIẢI NGHĨA

    Thoại khí: Thoại, cũng đọc là Thụy, nghĩa là tốt lành, khí là chất khí. Thoại khí là khí lành, nó chính là Hỗn nguơn khí, là khí Sanh quang nuôi sống cả vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, có đoạn mô tả Bạch Ngọc Kinh ở trong vùng Thoại khí như sau:

    "Thoạt tiên, chúng ta ngó thấy phía xa xăm có ánh sáng chói lọi, cũng như mặt trời mọc buổi sáng, đàng xa ngó thấy một ánh sáng chiếu diệu, cũng như một vùng Thoại khí. Khi Pháp xa của Bần đạo đến thấy hào quang chiếu diệu chói vào Pháp xa sáng rỡ, dường thể ánh sáng đèn pha ở thế gian nầy vậy. Lại gần tới còn thấy một vật khác thường quái lạ, nhưng nó là một Tòa Thiên các đẹp đẽ lắm, màu sắc thay đổi sáng rỡ, mà cả Thoại khí bao quanh làm như thể vận chuyển hình trạng của nó vậy.

    Nhà cửa ở thế gian là con vật chết, Bạch Ngọc Kinh là con vật sống, biến hóa thay đổi như thể vận hành, xung quanh Thoại khí bao trùm, từ Nam chí Bắc, từ Ðông qua Tây, khối lửa ánh sáng ấy, chúng ta ngó thấy như mặt trời vậy, mà ánh sáng mặt trời thì nóng nực, bực bội, còn ánh sáng nơi Bạch Ngọc Kinh thì lại dịu dàng và huyền bí lắm, sung sướng khoái lạc lắm! Tại sao đài các là con tử vật, mà nó sống? Sống là do nơi đâu? Nếu biết được thì không lạ gì.

    Nơi Bạch Ngọc Kinh nó là Hỗn Nguơn khí biến hình nó ra. Hỗn Nguơn khí là khí Sanh quang của chúng ta đã thở, đã hô hấp, khí để nuôi cả sanh vật sống, ta cũng do nơi nó xuất hiện, mà biểu làm sao không sống?"

    Bát hồn: 8 phẩm chơn hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Tiên hồn, Phật hồn.

    Tạo Hóa Thiên: Từng Trời thứ 9 ở vị trí cao nhất trong Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của Ðức Phật Mẫu. Ðức Chí Tôn giao cho Ðức Phật Mẫu nhiệm vụ tạo hóa, nên từng Trời nầy được gọi là Tạo Hóa Thiên. Ðức Phật Mẫu thâu lằn Sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi lấy khí Dương quang phối hợp với Âm quang để tạo hóa Chơn thần cho Vạn linh, rồi vận chuyển Vạn linh cho đầu kiếp xuống trần thành chúng sanh. Sanh biến: Biến hóa sanh ra.

    Câu 1-2: Vùng thoại khí Bát hồn vận chuyển, Tạo Hóa Thiên sanh biến vô cùng, nghĩa là: Ðức Phật Mẫu ở từng Trời Tạo Hóa Thiên, vận chuyển Bát hồn trong vùng thoại khí (Khí Sanh quang), biến hóa vô cùng để tạo thành chúng sanh.

    Câu 3-4: Hội Bàn Ðào Diêu Trì Cung, Phục sinh đào hạnh, rượu hồng thưởng ban.

    GIẢI NGHĨA

    Bàn Ðào: Bàn là quanh co, Ðào là cây đào. Cây Bàn Ðào tức là cây Ðào Tiên vì có thân mọc quanh co. Cho nên trái Bàn Ðào tức là trái Ðào Tiên.

    Hội Bàn Ðào: Hội liên hoan gồm chư Thần Thánh Tiên Phật do Ðức Phật Mẫu tổ chức tại Diêu Trì Cung, trong dịp đúng kỳ Vườn Ðào Tiên có trái chín.

    Phục sinh: Phục là trở lại, sinh là sống. Phục sinh là sống trở lại, phục hồi sự sống.

    Ðào hạnh: Trái đào và trái hạnh.

    Rượu hồng: Ý nói Rượu Tiên.

    Câu 3-4: Ðức Phật Mẫu mở Hội Bàn Ðào nơi Diêu Trì Cung, đãi tiệc là những trái đào và trái hạnh, vì đó là 2 thứ trái quí nơi cõi Tiên có đặc tính phục hồi sự sống, và Ðức Phật Mẫu ban thưởng cho uống rượu Tiên.

    Câu 5: Cung Bắc Ðẩu xem căn quả số.

    GIẢI NGHĨA

    Căn quả số: Căn là gốc rễ, chỉ các việc làm thiện ác trong kiếp sống trước; Quả là cái kết quả có được theo Luật Nhân quả; số là cái số phận của mỗi người. Căn quả số là cái số phận của mỗi người do nơi căn quả, tức là do nơi kết quả của những việc làm thiện ác trong kiếp sống trước tạo nên.

    Câu 5: Chơn hồn vào Cung Bắc Ðẩu xem căn quả cho biết số phận của mình.

    Câu 6: Học triều nghi vào ở Linh Tiêu.

    GIẢI NGHĨA

    Triều nghi: Nghi lễ và phép tắc nơi triều đình.

    Linh Tiêu: Linh Tiêu Ðiện trong Ngọc Hư Cung, là nơi họp triều đình của Ðức Chí Tôn.

    Câu 6: Chơn hồn phải học tập các phép tắc và lễ nghi nơi triều đình để vào Linh Tiêu Ðiện chầu lạy Ðức Chí Tôn.

    Câu 7-8: Ngọc Hư Cung sắc lệnh kêu, Thưởng phong, trừng trị, phân điều đọa thăng.

    GIẢI NGHĨA

    Sắc lệnh: Lịnh của Ðức Chí Tôn.

    Thưởng phong: Phong thưởng, có công thì được phong thưởng cho những phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật.

    Trừng trị: Có tội thì bị trừng phạt cho sợ mà không dám tái phạm.

    Phân điều đọa thăng: Chia ra 2 điều: Ðọa đày xuống cõi thấp kém khổ sở, hoặc là siêu thăng.

    Câu 7-8: Nơi Ngọc Hư Cung, Sắc lệnh của Ðức Chí Tôn gọi Chơn hồn vào để các Ðấng xem xét công và tội, phân ra: có công thì được phong thưởng và siêu thăng, có tội thì bị trừng phạt và bị đọa đày.

    Câu 9-10: Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất, Tạo hình hài các bậc nguyên nhân.

    GIẢI NGHĨA

    Kim Bồn: Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung. Kim Bàn hay Kim Bồn là cái chậu bằng vàng nơi Diêu Trì Cung mà Ðức Phật Mẫu dùng để chứa các nguyên chất.

    Vàn vàn: do chữ Vạn vạn nói trại ra, vạn là muôn = 10000. Vàn vàn là Vạn vạn, là muôn muôn, chỉ một số lượng nhiều lắm, không thể đếm hết.

    Nguơn chất: Nguyên chất, chất khí nguyên thủy, đầu tiên hơn hết, đó là khí Dương quang và khí Âm quang. Ðức Chí Tôn chưởng quản khí Dương quang, và Ðức Phật Mẫu chưởng quản khí Âm quang. Ðức Phật Mẫu chứa 2 khí nguyên chất nầy trong Kim Bàn, rồi thâu lằn Sanh quang của ngôi Thái Cực của Ðức Chí Tôn, cho 2 khí Âm Dương ấy phối hợp nhau để tạo ra Chơn thần cho vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ.

    Hình hài: Ở đây chỉ Xác thân Thiêng Liêng, tức Chơn thần.

    Nguyên nhân: Những người mà Chơn linh được sanh ra từ lúc Khai Thiên. (Xem: C.7 PG). Ðầu tiên, Nguyên nhân chỉ là một Ðiểm Linh quang của Ðức Chí Tôn. Ðức Phật Mẫu dùng nguyên chất trong Kim Bàn tạo cho Ðiểm Linh quang ấy một Chơn thần. Thế là Ðức Phật Mẫu tạo thành một nguyên nhân nơi cõi thiêng liêng. Sau đó, Ðức Phật Mẫu cho nguyên nhân ấy đầu kiếp xuống cõi trần thì có được hình hài nơi cõi trần và thành một nguyên nhân nơi cõi trần.

    Câu 9-10: Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất, Tạo hình hài các bậc nguyên nhân, nghĩa là: Nơi Kim Bàn trong Diêu Trì Cung, Ðức Phật Mẫu chứa rất nhiều nguyên chất. Phật Mẫu dùng các nguyên chất nầy để tạo Chơn thần cho các nguyên nhân.

    Câu 11-12: Cung Trí Giác trụ Tinh Thần, Huờn Hư mầu nhiệm thoát trần đăng Tiên.

    GIẢI NGHĨA

    Trụ: Giữ vững. Tinh Thần: Hai Bửu trong Tam Bửu của con người nơi cõi trần . Tam Bửu gồm: Tinh, Khí, Thần. Trong Phép Luyện Ðạo, luyện cho Tam Bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt là: Luyện Tinh hóa Khí, Luyện Khí hiệp Thần, Luyện Thần huờn Hư thì đạt được Chơn thần huyền diệu, đắc đạo tại thế. Trước khi Luyện Tinh hóa Khí thì phải: Trụ Tinh, Dưỡng Khí, Tồn Thần.

    Huờn Hư: Huờn là hoàn trở lại, Hư là Hư Vô, cõi giới rất huyền vi mầu nhiệm. Huờn Hư là trở nên mầu nhiệm.

    Thoát trần: Thoát ra khỏi cõi trần, tức là được siêu thăng, thoát khỏi luân hồi.

    Ðăng Tiên: Ðăng là lên. Ðăng Tiên là lên đường đi lên cõi Tiên, tức là đắc đạo thành Tiên, lên ở cõi Tiên.

    Câu 11-12: Hai Câu kinh nầy, Ðức Phật Mẫu nói về Phép Luyện Ðạo, luyện cho Tam Bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt, đắc đạo thành Tiên tại thế: Nơi Cung Trí Giác, luyện cho Tam Bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt thì tạo được Chơn thần huyền diệu, đắc đạo thành Tiên, thoát khỏi cõi trần, lên đường về Tiên cảnh.

  • Kinh Tiểu Tường

    Kinh Tiểu Tường
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Tịnh niệm phép Nhiên Ðăng tưởng tín. Phép tịnh niệm giữ lòng trong sạch để niệm danh Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật và tin tưởng nơi Ngài.
    2. Hư Vô Thiên đến thính Phật điều. Chơn hồn đến từng Trời Hư Vô Thiên để nghe những điều Phật dạy.
    3. Ngọc Hư Ðại Hội ngự triều. Ðức Chí Tôn đến Ngọc Hư Cung để họp Ðại Hội triều đình.
    4. Thiều quang nhị bá Thiên kiều để chơn. Hai trăm ngày sau, Chơn hồn được đặt chơn lên cây cầu Thiên kiều.
    5.
    6.
    Bồ Ðề Dạ dẫn hồn thượng tấn,
    Cực Lạc quan đẹp phận Tây Qui.
    Bồ Ðề Dạ hướng dẫn Chơn hồn tiến lên cao, đến cái cổng lớn đi vào Cực Lạc Thế Giới, rồi đi đến một chỗ gọi là Tây Qui, là nơi định phận tốt đẹp cho Chơn hồn.
    7.
    8.
    Vào Lôi Âm kiến A-Di,
    Bộ Công Di-Lạc Tam Kỳ độ sanh.
    Chơn hồn đi vào Chùa Lôi Âm để bái kiến Ðức Phật A-Di-Ðà. Ðức Phật Di-Lạc lập ra Bộ Công Quả trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để cứu giúp các Chơn hồn đưa lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
    9. Ao Thất Bửu gội mình sạch tục. Chơn hồn được đến tắm nơi Ao Thất Bửu để gội sạch hết các thứ dơ bẩn của cõi trần đã bám vào Chơn thần.
    10. Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam. Tòa sen, ngôi vị Phật Dà Lam là kết quả của những phước đức tu hành.
    11. Vạn linh trổi tiếng mầng thầm. Vạn linh đều cất tiếng nói thầm trong lòng là rất vui mừng thấy một Chơn linh đắc đạo vào phẩm vị Phật.
    12. Thiên Thơ Phật tạo độ phàm giải căn. Chư Phật lập ra Thiên thơ để cứu giúp và cởi bỏ hết các oan nghiệt của chúng sanh nơi cõi trần.

    (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Tiểu Tường do Ðức Phật Mẫu giáng cơ ban cho.

    Từ ngày làm Tuần Cửu Cửu (Chung Cửu) đến ngày làm Lễ Tiểu Tường là đúng 200 ngày.

    Tiểu Tường cũng được làm tại Thánh Thất sở tại, phải tụng bài Kinh Khai Cửu Ðại Tường và Tiểu Tường, rồi kế đó mới tụng Kinh Tiểu Tường.

    Câu 1: Tịnh niệm phép Nhiên Ðăng tưởng tín.

    GIẢI NGHĨA

    Tịnh niệm: Tịnh là trong sạch, niệm là tưởng nghĩ tới.

    Tịnh niệm phép là phép tắc giữ lòng trong sạch để tưởng nghĩ tới một Ðấng Thiêng Liêng.

    Nhiên Ðăng: Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật, Giáo chủ Phật giáo thời Nhứt Kỳ Phổ Ðộ, chưởng quản từng Trời Hư Vô Thiên.

    Tưởng tín: Tưởng là nhớ nghĩ tới, tín là tin. Tưởng tín là tin tưởng.

    Câu 1: Phép tịnh niệm giữ lòng trong sạch để niệm danh Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật và tin tưởng nơi Ngài.

    Câu 2: Hư Vô Thiên đến thính Phật điều.

    GIẢI NGHĨA

    Hư Vô Thiên: Từng Trời thứ 10, ngay bên trên Cửu Trùng Thiên. Trong từng Trời nầy có Ngọc Hư Cung và Cực Lạc Thế Giới.

    Thính: Nghe.

    Phật điều: Những điều Phật dạy.

    Câu 2: Chơn hồn đến từng Trời Hư Vô Thiên để nghe những điều Phật dạy.

    Câu 3: Ngọc Hư Ðại Hội ngự triều.

    GIẢI NGHĨA

    Ngọc Hư: Ngọc Hư Cung, thuộc từng Trời Hư Vô Thiên.

    Ngự triều: Ngự là chỉ hành động của vua. Ngự triều là Ðức Chí Tôn đến họp triều đình.

    Câu 3: Ðức Chí Tôn đến Ngọc Hư Cung để họp Ðại Hội triều đình.

    Câu 4: Thiều quang nhị bá Thiên kiều để chơn.

    GIẢI NGHĨA

    Thiều quang: Thiều là đẹp, quang là ánh sáng. Thiều quang là ánh sáng đẹp, ở đây chỉ 1 ngày.

    Nhị bá: 200.

    Thiều quang nhị bá: 200 ngày. Từ ngày làm Tuần Chung Cửu đến ngày làm Tiểu Tường là 200 ngày.

    Thiên kiều: Kiều là cây cầu. Thiên kiều là cây cầu bắc lên Trời.

    Câu 4: Thiều quang nhị bá Thiên kiều để chơn, nghĩa là: Hai trăm ngày sau, Chơn hồn được đặt chơn lên cây cầu Thiên kiều.

    Câu 5-6: Bồ Ðề Dạ dẫn hồn thượng tấn, Cực Lạc quan đẹp phận Tây Qui.

    GIẢI NGHĨA

    Thượng tấn: Thượng là đi lên, tấn là tiến tới. Thượng tấn là tiến lên cao.

    Quan: Cái cổng lớn.

    Cực Lạc quan: Cái cổng lớn đi vào Cực Lạc Thế Giới.

    Ðẹp phận: Số phận tốt đẹp.

    Tây Qui: Một địa danh nơi cõi Cực Lạc Thế Giới.

    Câu 5-6: Bồ Ðề Dạ hướng dẫn Chơn hồn tiến lên cao, đến cái cổng lớn đi vào Cực Lạc Thế Giới, rồi đi đến một chỗ gọi là Tây Qui, là nơi định phận tốt đẹp cho Chơn hồn.

    Câu 7-8: Vào Lôi Âm kiến A-Di, Bộ Công Di-Lạc Tam Kỳ độ sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Vào Lôi Âm: Ði vào Lôi Âm Tự, tức là đi vào Chùa Lôi Âm ở kinh đô của Cực Lạc Thế Giới.

    Kiến: Thấy, gặp.

    A-Di: nói tắt của từ ngữ A-Di-Ðà Phật. Ðức Phật A-Di-Ðà là Chưởng giáo Cực Lạc Thế Giới trong thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ. Qua thời TKPÐ, Ðức Phật A-Di-Ðà vâng lịnh Ðức Chí Tôn giao quyền Chưởng giáo lại cho Ðức Di-Lạc Vương Phật, Ngài vào ngự trong Lôi Âm Tự cùng với Ðức Phật Thích Ca.

    Bộ Công: Bộ là sổ sách ghi chép, Công là công quả. Bộ công là bộ sổ ghi chép công quả. Những người nào có công quả giúp đời giúp Ðạo, phổ độ nhơn sanh thì được ghi vào Bộ Công Quả. Trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ðức Chí Tôn lập ra một Trường thi Công quả cho chúng sanh đắc đạo, mà Ðức Phật Di-Lạc là Chánh Chủ Khảo nên Ðức Di-Lạc lập ra Bộ Công Quả để căn cứ vào đó mà chấm thi đậu rớt.

    Ðộ sanh: Cứu giúp Chơn hồn đưa lên sống cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Câu 7-8: Chơn hồn đi vào Chùa Lôi Âm để bái kiến Ðức Phật A-Di-Ðà. Ðức Phật Di-Lạc lập ra Bộ Công Quả trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để cứu giúp các Chơn hồn đưa lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Câu 9: Ao Thất Bửu gội mình sạch tục.

    GIẢI NGHĨA

    Thất bửu: 7 món báu, kể ra: Vàng, Bạc, Ngọc Lưu ly, Ngọc Xà cừ, Ngọc Mã não, Ngọc Hổ phách, Ngọc San hô.

    Ao Thất Bửu: Cái ao nơi cõi Cực Lạc Thế Giới, được xây dựng và trang trí bằng 7 thứ quí báu đẹp đẽ lạ thường. Ðặc biệt nước trong Ao Thất Bửu có đủ 8 công đức nên gọi là Bát Công Ðức Thủy. Người nào được ân huệ vào tắm trong Ao Thất Bửu thì trí tuệ được khai thông và chơn thần được trong sáng, vì các thứ ô trược nhiễm vào Chơn thần đã được gội sạch bởi nước 8 công đức trong ao.

    Sạch tục: Rửa sạch hết các thứ dơ bẩn nơi cõi trần đã bám vào Chơn thần. (Tục là chỉ cõi trần).

    Câu 9: Chơn hồn được đến tắm nơi Ao Thất Bửu để gội sạch hết các thứ dơ bẩn của cõi trần đã bám vào Chơn thần.

    Câu 10: Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam.

    GIẢI NGHĨA

    Liên đài: Tòa sen, ngôi vị của Phật.

    Quả phúc: Kết quả của phước đức. Ðó là ngôi vị Tiên, Phật.

    Dà Lam: Già Lam, ngôi vị Phật gọi là Phật Già Lam.

    Câu 10: Tòa sen, ngôi vị Phật Dà Lam là kết quả của những phước đức tu hành.

    Câu 11: Vạn linh trổi tiếng mầng thầm.

    GIẢI NGHĨA

    Vạn linh: Tất cả các Chơn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ gồm đủ Bát hồn.

    Trổi tiếng: Cất tiếng nói lên.

    Mầng thầm: Mừng rỡ mà không lộ ra ngoài, mừng kín đáo trong lòng.

    Câu 11: Vạn linh trổi tiếng mừng thầm, nghĩa là: Vạn linh đều cất tiếng nói thầm trong lòng là rất vui mừng thấy một Chơn linh đắc đạo vào phẩm vị Phật.

    Câu 12: Thiên Thơ Phật tạo độ phàm giải căn.

    GIẢI NGHĨA

    Thiên thơ: Thơ là sách, Thiên thơ là quyển sách của Trời ghi chép Thiên điều, tức là ghi chép các Luật pháp điều hành sự vận chuyển của Càn Khôn Vũ Trụ và sự tiến hóa của vạn linh. Thiên thơ được các Ðấng Tiên Phật họp tại Ngọc Hư Cung lập ra nên câu kinh mới viết là: Thiên thơ Phật tạo.

    Ðộ phàm: Cứu giúp chúng sanh nơi cõi trần. Ðộ là cứu giúp, phàm là tầm thường thấp kém, chỉ cõi trần .

    Giải căn: Cởi bỏ cái gốc rễ, cái gốc rễ ấy là những việc làm thiện ác trong kiếp sống trước tạo thành các oan nghiệt nơi cõi trần. Giải căn là cởi bỏ các oan nghiệt của chúng sanh nơi cõi trần .

    Câu 12: Thiên thơ Phật tạo độ phàm giải căn, nghĩa là: Chư Phật lập ra Thiên thơ để cứu giúp và cởi bỏ hết các oan nghiệt của chúng sanh nơi cõi trần.

  • Kinh Ðại Tường

    Kinh Ðại Tường
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Hỗn Nguơn Thiên dưới quyền Giáo chủ,
    Di-Lạc đương thâu thủ phổ duyên.
    Ðức Di-Lạc Vương Phật làm Giáo chủ từng Trời Hỗn Nguơn Thiên. Ngài đảm đương việc thâu nhận và gìn giữ những người có duyên tu hành ở khắp nơi.
    3. Tái sanh sửa đổi chơn truyền. Ðức Di-Lạc Vương Phật sẽ giáng sanh xuống cõi trần nầy một lần nữa để sửa đổi tất cả giáo lý của các tôn giáo xưa, cho đúng chơn truyền.
    4. Khai cơ tận độ Cửu tuyền diệt vong. Ðức Di-Lạc Vương Phật mở ra cơ quan tận độ nhơn sanh và tiêu diệt cõi Ðịa ngục.
    5. Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị. Ðức Di-Lạc Vương Phật mở Ðại Hội Long Hoa tuyển lựa người đầy đủ công đức phong thưởng vào ngôi vị Phật.
    6. Cõi Tây phang đuổi quỉ trừ ma. Nơi cõi Tây phương Cực Lạc, Ðức Phật Di-Lạc xua đuổi và trừ khử ma quỉ không cho lộng hành.
    7.
    8.
    Giáng linh Hộ Pháp Di-Ðà,
    Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh.
    Ðức Phật Di-Lạc chiết chơn linh giáng trần làm một vị Phật Hộ Pháp, dùng bửu pháp Giáng Ma Xử chuyển động để xua đuổi các loài tà ma yêu quái.
    9.
    10.
    Thâu các đạo hữu hình làm một,
    Trường thi Tiên Phật duợt kiếp khiên.
    Ðức Di-Lạc Vương Phật thâu gom các nền tôn giáo lớn hiện nay vào một mối duy nhất, lập thành một nền Ðại Ðạo. Ðức Chí Tôn lập ra một Trường thi Công quả tuyển phong Tiên vị và Phật vị, giao cho Ðức Di-Lạc làm Chánh chủ khảo, duyệt xét tội tình của nhơn sanh để chấm thi đậu rớt.
    11.
    12.
    Tạo đời cải dữ ra hiền,
    Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.
    Tạo lập đời Thượng nguơn Thánh đức bằng cách giáo hóa người dữ thành người hiền, gìn giữ sự sống cho chúng sanh, nắm giữ quyền pháp huyền diệu của Ðức Chí Tôn.

    (Niệm Câu Chú của Thầy 3 lần)

    GIẢI NGHĨA

    Kinh Ðại Tường, còn được gọi là Hỗn Nguơn Kinh, do Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giáng cơ ban cho.

    Nội dung bài Kinh nầy, Ðức Phật Thích Ca cho biết Ðức Di-Lạc Vương Phật hiện nay đang chưởng quản từng Trời Hỗn Nguơn Thiên và làm Giáo Chủ Hội Long Hoa để tuyển phong Phật vị trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ðức Phật Di-Lạc còn thay mặt Ðức Chí Tôn thực hiện tôn chỉ "Qui nguyên Tam giáo và phục nhứt Ngũ Chi Ðại Ðạo" để lập đời Thánh đức, tạo ra một xã hội Ðại đồng cho toàn nhơn loại.

    Câu 1-2: Hỗn Nguơn Thiên dưới quyền Giáo chủ, Di-Lạc đương thâu thủ phổ duyên.

    GIẢI NGHĨA

    Hỗn Nguơn Thiên: Theo Di Lạc Chơn Kinh, từng Trời Tạo Hóa Thiên là từng thứ 9 cao nhất trong Cửu Trùng Thiên.

    Từng Trời thứ 10 là Hư Vô Thiên, do Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật Chưởng quản.

    Từng Trời thứ 11 là Hội Nguơn Thiên.

    Từng Trời thứ 12 là Hỗn Nguơn Thiên.

    Hai từng Trời 11 và 12 đều do Ðức Phật Di-Lạc chưởng quản.

    Ðương: Ðảm đương, nhận lãnh gánh vác.

    Thâu: Nhận vào.

    Thủ: Gìn giữ.

    Phổ: Bày ra khắp nơi.

    Duyên: Có mối dây ràng buộc, ý nói có duyên với Phật, có duyên tu hành.

    Ðương thâu thủ phổ duyên: Nhận lãnh việc thâu nhận và gìn giữ những người có duyên tu hành ở khắp nơi.

    Câu 1-2: Ðức Di-Lạc Vương Phật làm Giáo chủ từng Trời Hỗn Nguơn Thiên. Ngài đảm đương việc thâu nhận và gìn giữ những người có duyên tu hành ở khắp nơi.

    Câu 3: Tái sanh sửa đổi chơn truyền.

    GIẢI NGHĨA

    Tái sanh: Tái là lập lại một lần nữa. Tái sanh là giáng sanh xuống cõi trần một lần nữa.

    Chơn truyền: Giáo lý chơn thật của một nền tôn giáo do vị Giáo chủ truyền lại, nếu tu hành đúng y theo đó thì nhứt định sẽ được đắc đạo.

    Câu 3: Ðức Di-Lạc Vương Phật sẽ giáng sanh xuống cõi trần nầy một lần nữa để sửa đổi tất cả giáo lý của các tôn giáo xưa, cho đúng chơn truyền, bởi vì giáo lý của các tôn giáo nầy, qua hơn 2000 năm truyền bá đã bị người đời canh cải làm sai lạc rất nhiều.

    Ngũ giáo thất chơn truyền:

    Ở Á Ðông có Tam giáo: Phật, Lão, Nho; ở Âu Mỹ Châu có Thiên Chúa giáo với 2 chi phái lớn là Chính Thống giáo và Tin Lành; ở Trung Ðông có Hồi giáo, cả thảy là 5 tôn giáo lớn trên Thế giới mở ra vào thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, đã cứu độ nhơn sanh được hơn 2000 năm nay.

    Năm nền tôn giáo lớn nầy theo thời gian, đã bị những người lãnh đạo sửa cải dần dần, mỗi vị sửa một ít, đến nay thì Chơn truyền đã gần như sai lạc hẳn, cho nên người tu thì nhiều mà đắc đạo thì không có mấy người.

    Do đó, Ðức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ qui nguyên Tam giáo, phục nhứt Ngũ Chi, Ðức Di-Lạc Vương Phật là Ðấng được Ðức Chí Tôn ủy nhiệm thực hiện Cơ Qui Nhứt trọng đại nầy, đem các nền tôn giáo trở về gốc, sửa đổi giáo lý cho đúng với Chơn truyền của buổi ban đầu.

    Câu 4: Khai cơ tận độ Cửu tuyền diệt vong.

    GIẢI NGHĨA

    Tận độ: Tận là hết, độ là cứu. Tận độ là cứu tất cả nhơn sanh, không chừa một người nào.

    Cửu tuyền: Chín suối, chỉ cõi Âm phủ, cõi Ðịa ngục, bởi vì theo truyền thuyết dân gian thì ở cõi Âm phủ có 9 dòng suối.

    Diệt vong: Diệt là làm cho tiêu hết, vong là mất. Diệt vong là làm cho tiêu mất hết.

    Câu 4: Ðức Di-Lạc Vương Phật mở ra cơ quan tận độ nhơn sanh và tiêu diệt cõi Ðịa ngục.

    Câu kinh nầy đúng theo Thánh ý của Ðức Chí Tôn: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Ðại Ân Xá kỳ ba, để tận độ chúng sanh trước khi chấm dứt một giai đoạn tiến hóa cũ, bắt đầu một giai đoạn tiến hóa mới của nhơn loại nơi quả Ðịa cầu 68 nầy.

    ■ Vô Ðịa ngục, vô quỉ quan,
    Chí Tôn Ðại Xá nhứt trường qui nguyên.
    (Phật Mẫu Chơn Kinh)

    ■ Ðóng Ðịa ngục, mở tầng Thiên,
    Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương.
    (Kinh Giải Oan)

    Ðây là một nét đặc biệt hết sức mới mẻ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà từ trước tới nay chưa hề có ở bất kỳ một tôn giáo nào.

    Người tín đồ Cao Ðài phải hằng tâm ghi nhớ để luôn luôn cầu nguyện Ðức Chí Tôn cứu rỗi trong hồng ân của Ngài.

    Câu 5: Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị.

    GIẢI NGHĨA

    Hội Long Hoa: Long là rồng, hoa là cái bông. Long Hoa là một cái cây to lớn có hình dáng giống như con rồng, trổ hoa rực rỡ. Ðức Di-Lạc Vương Phật sẽ mở Ðại Hội tuyển chọn người hiền đức tại cội cây Long Hoa nầy, nên Ðại Hội ấy được gọi là Ðại Hội Long Hoa do Ðức Di-Lạc làm Giáo chủ.

    Ðức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo: Nơi Cung Hỗn Nguơn Thiên cốt yếu là nơi chung họp cùng các Ðấng Chơn hồn cao siêu, trí thức thông minh, kể từ bậc Thiên Tiên cho đến Phật vị, đều đến ở nơi đây, đặng tạo dựng đại nghiệp của mình. Cả toàn thể trong Càn Khôn Vũ Trụ, hoặc tiêu diệt, hoặc biến sanh, cũng do nơi đó cầm Chơn pháp quyết định. Nơi đây là nơi quyết định chương trình Long Hoa Ðại Hội của toàn thể vạn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ."

    Tuyển phong: Tuyển lựa người đầy đủ đạo đức để phong thưởng.

    Phật vị: Ngôi vị Phật.

    Câu 5: Ðức Di-Lạc Vương Phật mở Ðại Hội Long Hoa tuyển lựa người đầy đủ công đức phong thưởng vào ngôi vị Phật.

    Câu 6: Cõi Tây phang đuổi quỉ trừ ma.

    GIẢI NGHĨA

    Cõi Tây phang: Chữ Phang do chữ Phương nói trại ra. Cõi Tây phang là cõi Tây Phương Cực Lạc, tức là cõi Cực Lạc Thế Giới.

    Câu 6: Nơi cõi Tây phương Cực Lạc, Ðức Phật Di-Lạc xua đuổi và trừ khử ma quỉ không cho lộng hành.

    Câu 7-8: Giáng linh Hộ Pháp Di-Ðà, Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh.

    GIẢI NGHĨA

    Giáng linh: Chơn linh giáng xuống trần. Giáng là đi xuống. Thường thì các Ðấng Thiêng liêng chiết chơn linh giáng sanh xuống cõi trần, như Ðại Tiên Lý thiết Quả chiết chơn linh giáng sanh xuống trần là Ðức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung.

    Di-Ðà: Phiên âm từ tiếng Phạn, nghĩa là Phật.

    Hộ Pháp Di-Ðà: Ðức Phật Hộ Pháp.

    Cây Ma Xử: Nói đầy đủ là Cây Giáng Ma Xử. Giáng là hàng phục, Ma là loài Ma quỉ, Xử là cái chày. Giáng Ma Xử là cái chày để làm quỉ ma hàng phục. Giáng Ma Xử là bửu pháp của Ðức Hộ Pháp, trị tà ma, không cho chúng lộng hành.

    Trong truyện Phong Thần, vị Thánh Vi Hộ, với bửu pháp là Giáng Ma Xử, vâng lịnh Thầy là Ðạo Hạnh Thiên Tôn, xuống núi giúp Khương Thượng Tử Nha đánh bại các Tiên Triệt giáo.

    Ðuổi tà trục tinh: Tà tinh là tà ma tinh quái, chỉ chung loài ma quỉ yêu quái. Trục là xua đuổi. Ðuổi tà trục tinh là xua đuổi bọn tà ma yêu quái.

    Câu 7-8: Ðức Phật Di-Lạc chiết chơn linh giáng trần làm một vị Phật Hộ Pháp, dùng bửu pháp Giáng Ma Xử chuyển động để xua đuổi các loài tà ma yêu quái.

    Câu 9-10: Thâu các đạo hữu hình làm một, Trường thi Tiên Phật duợt kiếp khiên.

    GIẢI NGHĨA

    Các đạo hữu hình: Các tôn giáo hiện có nơi cõi trần.

    Các đạo hữu hình gồm 5 nền tôn giáo lớn trên thế giới, như đã kể trong phần Giải thích Câu 3. Các nền tôn giáo nầy do nhiều Ðấng Giáo chủ mở ra ở các nước khác nhau, với phong tục tạp quán khác nhau, nên xảy ra nhiều sự va chạm và chia rẽ, cho đạo mình là chánh, đạo khác là tà, gây ra nhiều cuộc chiến tranh rất thảm khốc dưới danh nghĩa Thánh chiến.

    Ngày nay, Ðức Di-Lạc nhận lãnh mạng lịnh của Ðức Chí Tôn, nên có đủ quyền pháp tóm thâu các nền tôn giáo nói trên vào một mối duy nhất, do chính Ngài làm Giáo chủ, tạo thành một nền Ðại Ðạo, để thống nhứt tín ngưỡng của nhơn sanh, lập ra thời kỳ Thánh đức, trong một xã hội Ðại đồng.

    Trường thi Tiên Phật: Ðức Chí Tôn lập ra một Trường thi Công quả cho nhơn sanh đắc đạo thành những phẩm vị Tiên hay Phật, mà Ðức Di-Lạc Vương Phật làm Chánh Chủ Khảo tuyển lựa và phong thưởng vào Tiên vị hay Phật vị. (Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị).

    Duợt kiếp khiên: Duợt tức là duyệt, nghĩa là xem xét để đánh giá trị, thường nói Khảo duyệt hay Khảo duợt, là thử thách để đánh giá trị cao thấp. Kiếp là một đời sống. Khiên là lỗi lầm. Duợt kiếp khiên là xem xét những tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống nơi cõi trần để chấm điểm cao thấp.

    Câu 9-10: Ðức Di-Lạc Vương Phật thâu gom các nền tôn giáo lớn hiện nay vào một mối duy nhất, lập thành một nền Ðại Ðạo. Ðức Chí Tôn lập ra một Trường thi Công quả tuyển phong Tiên vị và Phật vị, giao cho Ðức Di-Lạc làm Chánh chủ khảo, duyệt xét tội tình của nhơn sanh để chấm thi đậu rớt.

    Câu 11-12: Tạo đời cải dữ ra hiền, Bảo sanh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn.

    GIẢI NGHĨA

    Cải dữ ra hiền: Giáo hóa để sửa đổi người hung dữ thành người hiền lành.

    Bảo sanh: Gìn giữ sự sống theo đức háo sanh của Thượng Ðế.

    Câu 11-12: Tạo lập đời Thượng nguơn Thánh đức bằng cách giáo hóa người dữ thành người hiền, gìn giữ sự sống cho chúng sanh, nắm giữ quyền pháp huyền diệu của Ðức Chí Tôn.

  • Kinh Tận độ Vong linh: Di-Lạc Chơn Kinh

    Di-Lạc Chơn Kinh

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1. Khai Kinh Kệ, Kệ mở đầu bài kinh,
    2. Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Giáo lý của Phật rất cao siêu, rất sâu xa, huyền vi mầu nhiệm.
    3. Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ. Trăm ngàn muôn kiếp khó gặp đặng.
    4. Ngã kim thính văn đắc thọ trì, Ta ngày nay nghe biết được nhận lấy và gìn giữ,
    5. Nguyện giải Tân Kinh chơn thiệt nghĩa. Nguyện giải thích bài kinh mới với ý nghĩa chơn thật.
    6. Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết, Ðức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết giảng,
    7. Di-Lạc Chơn Kinh. Kinh Di-Lạc chơn thật.
    8. Thượng Thiên Hỗn Nguơn hữu:
    - Brahma Phật
    - Çiva Phật,
    - Christna Phật,
    - Thanh Tịnh Trí Phật,
    - Diệu Minh Lý Phật,
    - Phục Tưởng Thị Phật,
    - Diệt Thể Thắng Phật,
    - Phục Linh Tánh Phật.
    Từng Trời ở trên hết là Hỗn Nguơn Thiên có:
    - Brahma Phật,
    - Civa Phật,
    - Christna Phật,
    - Thanh Tịnh Trí Phật,
    - Diệu Minh Lý Phật,
    - Phục Tưởng Thị Phật,
    - Diệt Thể Thắng Phật,
    - Phục Linh Tánh Phật.
    9. Nhứt thiết chư Phật, hữu giác hữu cảm, hữu sanh hữu tử, tri khổ nghiệp chướng, luân chuyển hóa sanh, năng du Ta-bà Thế giới độ tận vạn linh đắc qui Phật vị. Tất cả các vị Phật, có biết có cảm động, có sanh có chết, biết rõ cái khổ do nghiệp chướng gây ra, luân hồi chuyển kiếp hóa sanh ra, có khả năng đi khắp các cõi trần cứu giúp tất cả Chơn linh, được trở về ngôi vị Phật.
    10. Hội Nguơn Thiên hữu:
    - Trụ Thiện Phật,
    - Ða Ái Sanh Phật,
    - Giải Thoát Khổ Phật,
    - Diệu Chơn Hành Phật,
    - Thắng Giái Ác Phật,
    Từng Trời Hội Nguơn Thiên có:
    - Trụ Thiện Phật,
    - Ða Ái Sanh Phật,
    - Giải Thoát Khổ Phật,
    - Diệu Chơn Hành Phật,
    - Thắng Giái Ác Phật,
    11. Nhứt thiết chư Phật, tùng lịnh Di-Lạc Vương Phật, năng chiếu diệu quang tiêu trừ nghiệt chướng. Tất cả các vị Phật, nghe theo mệnh lệnh của Ðức Di-Lạc Vương Phật, có khả năng chiếu ánh sáng huyền diệu làm tiêu trừ các nghiệt chướng.
    12. Nhược hữu chúng sanh văn Ngã ưng đương thoát nghiệt, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tùng thị Pháp điều Tam Kỳ Phổ Ðộ, tất đắc giải thoát luân hồi, đắc lộ Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề thị chi chứng quả Cực Lạc Niết Bàn. Nếu như có người nào nghe biết lời TA, thì phải thoát khỏi các nghiệp ác, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tùng theo và nhìn nhận là đúng Luật pháp của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, ắt được giải thoát khỏi luân hồi, đắc đạo Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, ấy là chứng được quả vị nơi cõi Cực Lạc Niết Bàn (Cực Lạc Thế Giới).
    13. Nhược nhơn đương sanh, nhược nhơn vị sanh, nhược nhơn hữu kiếp, nhược nhơn vô kiếp, nhược nhơn hữu tội, nhược nhơn vô tội, nhược nhơn hữu niệm, nhược nhơn vô niệm, thính đắc Ngã ngôn, phát tâm thiện niệm, tất đắc A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề, tất đắc giải thoát. Nếu như người đang sống, nếu như người chưa được sanh ra, nếu như người có kiếp sống, nếu như người không có kiếp sống, nếu như người có tội, nếu như người không tội, nếu như người có lòng tưởng niệm, nếu như người không lòng tưởng niệm, nghe được lời nói của TA, phát khởi lòng tưởng nghĩ điều lành, ắt được phẩm vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, ắt được giải thoát.
    14. Nhược hữu nhơn thọ trì khủng kinh ma chướng, nhứt tâm thiện niệm: Nam mô Di-Lạc Vương Bồ-Tát, năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh thoát chư nghiệt chướng, tất đắc giải thoát. Nếu như có người nhận lãnh và gìn giữ làm theo lời Phật dạy, bị sợ hãi vì ma quỉ cản ngăn, một lòng một dạ tưởng nghĩ điều lành, niệm: Nam mô Di-Lạc Vương Bồ Tát, có khả năng cứu giúp tai nạn khổ sở, có khả năng cứu giúp 3 tai họa lớn, có khả năng cứu được bịnh tật, có khả năng cứu giúp và dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi các thứ nghiệt chướng, ắt được giải thoát.
    15. Hư Vô Cao Thiên hữu:
    - Tiếp Dẫn Phật,
    - Phổ Tế Phật,
    - Tây Qui Phật,
    - Tuyển Kinh Phật,
    - Tế Pháp Phật,
    - Chiếu Duyên Phật,
    - Phong Vị Phật,
    - Hội Chơn Phật
    Từng Trời Hư Vô Thiên ở trên cao, có:
    - Tiếp Dẫn Phật,
    - Phổ Tế Phật,
    - Tây Qui Phật,
    - Tuyển Kinh Phật,
    - Tế Pháp Phật,
    - Chiếu Duyên Phật,
    - Phong Vị Phật,
    - Hội Chơn Phật.
    16. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Nhiên Ðăng Cổ Phật, dẫn độ Chơn linh, đắc Pháp đắc Phật, đắc duyên đắc vị, đắc A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề, chứng quả nhập Cực Lạc Quốc, hiệp chúng đẳng chư Phật, tạo định Thiên Thi, tận độ chúng sanh đắc qui Phật vị. Như vô số các vị Phật ở các cấp, tuân theo mệnh lệnh của Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật, dẫn dắt và cứu giúp các Chơn linh, đạt được Pháp, đạt được Phật vị, có được duyên, có được ngôi vị, đạt phẩm vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, chứng được quả vị, nhập vào cõi Cực Lạc Thế Giới, hiệp với chư Phật các cấp, sắp đặt làm ra Thiên thơ, cứu giúp toàn cả chúng sanh được trở về ngôi vị Phật.
    17. Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tu trì, thính Ngã dục đắc chơn truyền, niệm thử Nhiên Ðăng Cổ Phật, thường du Ta bà Thế giới, giáo hóa chơn truyền, phổ tế chúng sanh, giải thoát lục dục thất tình, thoát đọa luân hồi, tất đắc giải thoát. Nếu như người Nam lành, người Nữ lành, gìn giữ việc tu hành, nghe theo Ta, muốn được chơn truyền, hãy niệm thế nầy: Nam mô Nhiên Ðăng Cổ Phật, thường đi du hành đến các cõi trần, giáo hóa giáo lý chơn thật, giúp đỡ chúng sanh khắp nơi, giải thoát khỏi Lục dục và Thất Tình, thoát khỏi sự đọa đày vào vòng luân hồi, ắt được giải thoát.
    18. Tạo Hóa Huyền Thiên hữu:
    - Quảng Sanh Phật,
    - Dưỡng Dục Phật,
    - Chưởng Hậu Phật,
    - Thủ Luân Phật,
    - dữ Cửu Vị Nữ Phật.
    Từng Trời Tạo Hóa Thiên huyền diệu có:
    - Quảng Sanh Phật,
    - Dưỡng Dục Phật,
    - Chưởng Hậu Phật,
    - Thủ Luân Phật,
    - cùng với Cửu vị Nữ Phật.
    19. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Kim Bàn Phật Mẫu, năng tạo năng hóa vạn linh, năng du Ta bà Thế giới, dưỡng dục quần sanh, qui nguyên Phật vị. Như vô số các vị Phật ở các cấp, tuân theo mệnh lệnh của Ðức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn Diêu Trì Cung, có khả năng tạo hóa ra vạn linh, có khả năng du hành đến các cõi trần, để nuôi dưỡng chúng sanh, trở về nguồn cội là ngôi vị Phật.
    20. Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, thính Ngã dục tu phát nguyện: Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu dưỡng dục quần linh, nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm, huờn hư thi hình đắc A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề, xá lợi tử qui nguyên Phật vị, tất đắc giải thoát. Nếu như có người Nam lành, người Nữ lành, nghe lời Ta, muốn tu hành thì phát ra lời nguyện: Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu, nuôi dưỡng vạn linh, nếu như có sanh ra, nếu như chưa sanh ra, nếu như có kiếp sống, nếu như không kiếp sống, nếu như có tội, nếu như không tội, nếu như có lòng tưởng niệm, nếu như không lòng tưởng niệm, trở lại cõi Hư Vô, thi hành đúng theo khuôn phép, được phẩm vị Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác, Chơn thần trở về nguồn cội là ngôi vị Phật, ắt được giải thoát.
    21. Phi Tưởng Diệu Thiên hữu:
    - Ða Pháp Phật,
    - Tịnh Thiện Giáo Phật,
    - Kiến Thăng Vị Phật,
    - Hiển Hóa Sanh Phật,
    - Trục Tà Tinh Phật,
    - Luyện Ðắc Pháp Phật,
    - Hộ Trì Niệm Phật,
    - Khai Huyền Cơ Phật,
    - Hoán Trược Tánh Phật,
    - Ða Phúc Ðức Phật.
    Từng Trời Phi Tưởng Thiên huyền diệu có:
    - Ða Pháp Phật,
    - Tịnh Thiện Giáo Phật,
    - Kiến Thăng Vị Phật,
    - Hiển Hóa Sanh Phật,
    - Trục Tà Tinh Phật,
    - Luyện Ðắc Pháp Phật,
    - Hộ Trì Niệm Phật,
    - Khai Huyền Cơ Phật,
    - Hoán Trược Tánh Phật,
    - Ða Phúc Ðức Phật.
    22. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Từ Hàng Bồ Tát, năng du Ta bà Thế giới, thi pháp hộ trì vạn linh sanh chúng. Như vô số các vị Phật ở các cấp, tuân theo mạng lịnh của Ðức Từ Hàng Bồ Tát, có khả năng du hành đến các cõi trần, thi hành các pháp thuật huyền diệu để che chở, gìn giữ vạn linh và chúng sanh trong Càn Khôn Vũ Trụ.
    23. Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tín Ngã ưng đương phát nguyện: Nam mô Từ Hàng Bồ Tát, năng cứu tật bịnh, năng cứu tam tai, năng độ tận chúng sanh thoát ư tứ khổ, năng trừ tà ma, năng trừ nghiệt chướng, tất đắc giải thoát. Nếu như có người Nam lành, người Nữ lành, tin theo Ta, thì phải phát ra lời nguyện: Nam mô Từ Hàng Bồ Tát, có khả năng cứu được bịnh tật, có khả năng cứu được 3 tai họa lớn, có khả năng tận độ chúng sanh, thoát khỏi nơi Tứ khổ, có khả năng trừ diệt tà ma, có khả năng trừ diệt các nghiệt chướng, ắt được giải thoát.
    24. Hạo Nhiên Pháp Thiên hữu:
    - Diệt Tướng Phật,
    - Ðệ Pháp Phật.
    - Diệt Oan Phật,
    - Sát Quái Phật,
    - Ðịnh Quả Phật,
    - Thành Tâm Phật,
    - Diệt Khổ Phật,
    - Kiên Trì Phật,
    - Cứu Khổ Phật,
    - Xá Tội Phật,
    - Giải Thể Phật.
    Từng Trời Hạo Nhiên Thiên coi về Pháp luật, có:
    - Diệt Tướng Phật,
    - Ðệ Pháp Phật.
    - Diệt Oan Phật,
    - Sát Quái Phật,
    - Ðịnh Quả Phật,
    - Thành Tâm Phật,
    - Diệt Khổ Phật,
    - Kiên Trì Phật,
    - Cứu Khổ Phật,
    - Xá Tội Phật,
    - Giải Thể Phật.
    25. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Chuẩn Ðề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, thường du Ta bà Thế giới, độ tận vạn linh. Như vô số các vị Phật ở các cấp, tuân theo mạng lịnh của Ðức Chuẩn Ðề Bồ Tát và Ðức Phổ Hiền Bồ Tát, thường đi du hành đến các cõi trần cứu giúp toàn cả vạn linh.
    26. Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tín Ngã ưng đương phát nguyện: Nam mô Chuẩn Ðề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, năng trừ ma chướng quỉ tai, năng cứu khổ ách nghiệt chướng, năng độ chúng sanh qui ư Cực Lạc, tất đắc giải thoát. Nếu như có người Nam lành, người Nữ lành, tin theo Ta, thì phải phát ra lời nguyện: Nam mô Chuẩn Ðề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, có khả năng trừ diệt sự ngăn trở của ma và các tai nạn do quỉ gây ra, có khả năng cứu giúp các tai nạn khổ sở và các nghiệt chướng, có khả năng cứu giúp chúng sanh trở về nơi Cực Lạc Thế Giới, ắt được giải thoát.

    GHI CHÚ: Tụng đến đây thì niệm danh mỗi vị Phật, lạy xuống 1 lạy không gật. Tất cả có 53 lần niệm, lạy 53 lạy. Tiếp theo tụng Câu Chú của Thầy 3 lần, cầu nguyện, xong lạy xuống 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật niệm Câu Chú của Thầy.

    Câu 1: Khai Kinh Kệ,

    GIẢI NGHĨA

    Di-Lạc Chơn Kinh, thuộc Kinh Tận Ðộ, do Ðức Phật Thích Ca giáng cơ ban cho.

    Khai là mở đầu,

    Kinh là bài kinh,

    Kệ là bài kệ, tức là một đoạn văn ngắn có vần điệu, có nội dung cho biết ý nghĩa tổng quát của bài kinh.

    Câu 1: Khai Kinh Kệ là bài Kệ mở đầu một bài Kinh.

    Câu 2: Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp

    GIẢI NGHĨA

    Vô thượng: Không có cái gì cao hơn, ý nói rất cao siêu.

    Thậm thâm: Rất sâu xa. Thậm là rất, thâm là sâu.

    Vi diệu: Vi là rất nhỏ, diệu là khéo léo. Vi diệu là huyền vi mầu nhiệm.

    Pháp: Giáo lý của Phật.

    Câu 2: Giáo lý của Phật rất cao siêu, sâu xa, huyền vi mầu nhiệm.

    Câu 3: Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.

    GIẢI NGHĨA

    Bá: Trăm.

    Thiên: Ngàn.

    Vạn: Muôn.

    Kiếp: Một kiếp sống.

    Nan: Khó.

    Tao ngộ: Gặp gỡ tình cờ, không hẹn trước.

    Câu 3: Trăm ngàn muôn kiếp khó gặp đặng.

    Câu 4: Ngã kim thính văn đắc thọ trì.

    GIẢI NGHĨA

    Ngã: Ta, tiếng tự xưng của Ðức Phật Thích Ca.

    Kim: Ngày nay.

    Thính: Nghe.

    Văn: Nghe biết.

    Ðắc: Ðược.

    Thọ: Nhận lãnh.

    Trì: Gìn giữ, giữ lấy.

    Thọ trì: Nhận lãnh và giữ lấy. Như nghe thuyết pháp thì đem lòng tin mà thọ lãnh rồi niệm nhớ chẳng quên (trì).

    Câu 4: Ta ngày nay nghe biết, được nhận lãnh và giữ lấy.

    CHÚ Ý: Bên Kinh Phật giáo, Câu kinh nầy là: "Ngã kim kiến văn đắc thọ trì." Nghĩa là: Ta nay thấy nghe và được thọ trì. Kiến là thấy. Kiến văn là nghe thấy.

    Câu 5: Nguyện giải Tân Kinh chơn thiệt nghĩa.

    GIẢI NGHĨA

    Nguyện: Ý muốn trong lòng.

    Giải: Cắt nghĩa cho rõ ra.

    Tân Kinh: Kinh mới. Trái với Tân Kinh là Cựu Kinh. Các bài Kinh của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do các Ðấng Thiêng Liêng giáng cơ ban cho từ năm Bính Dần (1926) trở về sau được gọi là Tân Kinh. Còn các bài kinh thuộc Nhị Kỳ Phổ Ðộ, được gọi là Cựu Kinh.

    Chơn thiệt nghĩa: Ý nghĩa chơn thật, chánh đáng.

    Câu 5: Nguyện giải thích rõ ý nghĩa chơn thật của bài Tân Kinh nầy.

    Câu 6-7: Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết Di-Lạc Chơn Kinh.

    GIẢI NGHĨA

    Thuyết: Nói rõ ra, thuyết giảng.

    Chơn kinh: Bài kinh chơn thật, đúng chơn lý, do Ðức Phật giáng cơ viết ra.

    Di-Lạc Chơn Kinh: Bài Kinh chơn thật nói rõ quyền pháp của Ðức Phật Di-Lạc trong thời Tam Kỳ Phổ Ðộ.

    Câu 6-7: Ðức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật thuyết giảng Di-Lạc Chơn Kinh.

    Câu 8-9: Thượng Thiên Hỗn Nguơn hữu: .. .

    GIẢI NGHĨA

    Thượng Thiên Hỗn Nguơn: Từng Trời Hỗn Nguơn ở trên hết. Thượng là ở trên, Thiên là từng Trời.

    Hữu: Có.

    Nhứt thiết: Tất cả.

    Chư Phật: Các vị Phật.

    Hữu giác: Có biết.

    Cảm: Mối rung động trong lòng.

    Hữu cãm: Có mối rung động trong lòng.

    Hữu sanh: Có sanh ra và sống.

    Hữu tử: Có chết.

    Tri khổ: Biết rõ những cái khổ não nơi cõi trần.

    Con người có Tứ Khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Ngoài ra, con người còn chịu biết bao nỗi đau khổ khác do Tham, Sân, Si gây ra.

    Nghiệp chướng: Nghiệp là cái lực cảm do những việc làm thiện ác trong kiếp sống trước tạo ra để ảnh hưởng lên kiếp sống hiện tại. Thường, chữ "Nghiệp" dùng với ý nghĩa là "Nghiệp dữ" (Ác nghiệp), thì đương nhiên phải chịu lấy hậu quả xấu theo đúng Luật Nhân Quả. Chướng là sự ngăn trở. Nghiệp chướng là sự ngăn trở của nghiệp, nó sẽ gây ra hoạn nạn, bệnh tật, trong kiếp sống hiện tại để ngăn trở, báo đáp lại những việc làm bất thiện đã tạo ra trong kiếp trước.

    Luân chuyển hóa sanh: Luân là cái bánh xe, chuyển là xoay vần, hóa sanh là biến hóa sanh ra. Luân chuyển hóa sanh là xoay vòng như cái bánh xe, hết sanh rồi tử, hết tử rồi lại sanh ra. Ðó là sự luân hồi chuyển kiếp, khiến con người chìm đắm mãi trong cõi trần, từ kiếp nầy sang kiếp khác.

    Năng du: Năng là có khả năng, du là đi đó đi đây. Năng du là có khả năng đi đó đi đây.

    Ta bà Thế giới: Ta bà, do chữ Phạn là Saha phiên âm ra, có nghĩa là: Nhẫn nhục. Ta bà Thế giới là những cõi mà người tu hành phải nhẫn nhục, vì ở cõi nầy có nhiều ô trược và ác độc. Ở cõi nầy rất khó tu hành, nhưng nếu tu được thì công đức rất lớn, chỉ trong một kiếp cũng có thể đạt được phẩm vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng. Cõi trần của nhơn loại chúng ta đây là một cõi trong Ta bà Thế giới.

    Ðộ tận: Ðộ là cứu giúp, tận là hết. Ðộ tận là cứu giúp tất cả nhơn loại, không chừa một người nào, dầu con nít còn trong bụng mẹ cũng phải độ.

    Ðức Chí Tôn có nói:

    "Chiêu kỳ trung độ dẫn hoài sanh", là nghĩa gì? Dầu cho trẻ con trong bụng cũng phải độ, sao các con lại đuổi thiện nam tín nữ?" (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 20)

    Vạn linh: Tất cả Chơn linh trong Càn Khôn Vũ Trụ gồm đủ Bát hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn. Vạn linh đầu kiếp xuống trần làm chúng sanh.

    Ðắc qui Phật vị: Ðược trở về ngôi vị Phật. Ðắc là được, Qui là trở về, Phật vị là ngôi vị Phật. Dùng chữ Qui là trở về, với ý nghĩa là: Trước đây Chơn linh đã đạt được ngôi vị Phật nơi cõi thiêng liêng, nay đầu kiếp xuống trần, tu hành đắc đạo trở về ngồi lại trên ngôi vị cũ.

    Câu 10: Hội Nguơn Thiên hữu: .. .

    GIẢI NGHĨA

    Hội Nguơn Thiên: Ðây là từng Trời kế bên dưới Hỗn Nguơn Thiên, và ở khoảng giữa Hư Vô Thiên và Hỗn Nguơn Thiên. Hư Vô Thiên là từng Trời thứ 10 (ở ngay phía trên Cửu Trùng Thiên) thì Hội Nguơn Thiên là từng thứ 11 và Hỗn Nguơn Thiên là từng thứ 12. Hai từng Trời 11 và 12 đều đặt dưới quyền chưởng quản của Ðức Di-Lạc Vương Phật.

    Câu 11: Nhứt thiết chư Phật, tùng lịnh Di-Lạc Vương Phật, năng.. . .

    GIẢI NGHĨA

    Năng chiếu diệu quang: Có khả năng chiếu sáng bằng ánh sáng huyền diệu.

    Tiêu trừ: Diệt trừ cho mất hết.

    Nghiệt chướng: Nghiệt là cái mầm ác, nghiệp ác; chướng là ngăn trở. Nghiệt chướng là cái nghiệp ác gây ra nhiều chướng ngại cho kiếp sống hiện tại, như gặp phải hoạn nạn, tai ương, hay bịnh tật.

    Câu 12: Nhược hữu chúng sanh văn Ngã ưng đương .. .

    GIẢI NGHĨA

    Nhược: Nếu như.

    Nhược hữu: Nếu như có.

    Chúng sanh: Các loài sanh vật, gồm: Thảo mộc, Thú cầm, Nhơn loại. Nghĩa hẹp của Chúng sanh là nhơn loại.

    Văn: Nghe biết.

    Ngã: Ta, tiếng tự xưng của Ðức Phật Thích Ca.

    Văn Ngã: Nghe biết lời Ta.

    Ưng đương: Thì phải, nên phải.

    Thoát nghiệt: Thoát khỏi các nghiệp ác.

    Niệm: Tưởng nghĩ tới, đọc nho nhỏ vừa đủ nghe lời cầu nguyện.

    Phật, Pháp, Tăng: Tam Bửu của Ðức Chí Tôn.

    Ðức Chí Tôn là Phật, vị Phật lớn nhứt trong các vị Phật. Ðức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, biến Lưỡng Nghi thành Tứ Tượng, rồi Bát Quái. "Thầy khai Bát Quái mà tác thành CKTG nên mới gọi là Pháp, Pháp có mới sanh ra CKVV rồi mới có người nên gọi là Tăng. Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Ðạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 52)

    Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng là niệm Ðức Chí Tôn.

    Tùng thị: Tùng là tuân theo, thị là phải là đúng. Tùng thị là tuân theo vì cho đó là đúng.

    Pháp điều: Những điều khoản của Luật pháp.

    Tam Kỳ Phổ Ðộ: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nền Ðại Ðạo do Ðức Chí Tôn mở ra lần thứ 3 để cứu độ nhơn sanh.

    Tất đắc: Ắt được.

    Giải thoát: Cởi bỏ hết để thoát ra.

    Giải thoát luân hồi: Cởi bỏ hết để thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.

    Ðắc lộ: Ðắc là được, lộ là đường đi, mà đạo cũng là đường đi, nên Ðắc lộ đồng nghĩa Ðắc đạo.

    Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề: do phiên âm từ chữ Phạn là: Tara Samyas Sambôdhi, nghĩa là: Tara (Ða-La) là Thượng, ở trên. Samyas (Tam-Diệu) là Chánh đẳng. Sambôdhi (Tam-Bồ-Ðề) là Chánh giác. Chánh đẳng là bực Chơn chánh, Chánh giác là giác ngộ chơn chánh, biết rõ chơn lý, giác ngộ hoàn toàn.

    Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề là Thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ðó là phẩm vị Phật.

    Thị chi: Ấy là, tức là.

    Chứng quả: Nhận thực cái kết quả tu hành, tức là đắc đạo đoạt được ngôi vị.

    Cực Lạc Niết Bàn: Cực Lạc Thế Giới hay Tây phương Cực Lạc.

    Câu 13: Nhược nhơn đương sanh, nhược nhơn vị sanh, .. .

    GIẢI NGHĨA

    Ðương: Ðang lúc.

    Vị: Chưa.

    Nhược nhơn đương sanh: Nếu như người đang sống.

    Nhược nhơn vị sanh: Nếu như người chưa được sanh ra.

    Hữu kiếp: Có kiếp sống nơi cõi trần.

    Vô kiếp: Không có kiếp sống nơi cõi trần.

    Hữu niệm: Có tưởng nghĩ tới.

    Thính đắc Ngã ngôn: Nghe được lời nói của Ta.

    Phát tâm thiện niệm: Lòng phát khởi tưởng nghĩ điều lành.

    Tất đắc giải thoát: Ắt được giải thoát khỏi luân hồi.

    A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề: do phiên âm từ chữ Phạn: Anout tara Samyas Sambôdhi, nghĩa là: Anout (A-Nậu): Không, Vô. Tara (Ða-La): Thượng. Samyas (Tam-Diệu): Chánh đẳng, bực chơn chánh. Sambôdhi (Tam-Bồ-Ðề): Chánh giác, giác ngộ chơn chánh.

    A-Nậu Ða-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Ðề: Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðó là phẩm vị Phật tối cao.

    Câu 14: Nhược hữu nhơn thọ trì khủng kinh ma chướng, .. .

    GIẢI NGHĨA

    Nhược hữu nhơn: Nếu như có người.

    Thọ: Nhận lãnh.

    Trì: Gìn giữ.

    Thọ trì: Nhận lãnh và gìn giữ làm đúng theo lời Phật dạy.

    Khủng kinh: Kinh khủng, rất sợ hãi.

    Ma chướng: Sự ngăn cản của quỉ ma. Người tu hành luôn luôn bị bọn ma quỉ khuấy phá đủ cách để làm chướng ngại cho bước đường tu, nhưng chính đó cũng là những thử thách cần thiết để nâng cao trình độ tu tiến. Nếu vượt qua được các chướng ngại do quỉ ma gây ra thì mới chứng tỏ người tu có đủ hạnh đức và có thể đắc đạo.

    Nhứt tâm thiện niệm: Một lòng một dạ tưởng nghĩ điều lành. Nhất tâm là một lòng một dạ, niệm là tưởng nghĩ.

    Di-Lạc Vương Bồ Tát - Di-Lạc Vương Phật:

    Vương là vua, người đứng đầu có quyền thống trị tất cả.

    Gọi Ngài là Di-Lạc Vương Phật khi Ngài ngự trên ngôi vị, điều khiển chư Phật và cai trị toàn cả CKTG.

    Gọi ngài là Di-Lạc Vương Bồ Tát khi Ngài làm nhiệm vụ cứu độ và dẫn dắt chúng sanh tu hành.

    Năng cứu: Có khả năng cứu giúp.

    Khổ ách: Tai nạn khổ sở. Ách là tai nạn.

    Tam tai: 3 thứ tai họa lớn: - Hỏa tai (tai họa do lửa cháy, như cháy nhà, cháy rừng); - Thủy tai (tai họa do nước, như lũ lụt, sóng thần); - Phong tai (tai họa do gió gây ra như bão tố, cuồng phong).

    Câu 15: Hư Vô Cao Thiên hữu: .. .

    GIẢI NGHĨA

    Hư Vô Cao Thiên: Từng Trời Hư Vô Thiên ở trên cao. Ðây là từng Trời thứ 10, kế bên trên Cửu Trùng Thiên, dưới quyền chưởng quản của Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật.

    Câu 16: Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật,.. .

    GIẢI NGHĨA

    Như thị: Như thế, như là.

    Ðẳng: Cấp bực.

    Như thị đẳng chư Phật: Như các vị Phật ở trong các cấp.

    Hằng hà: Sông Hằng (sông Gange) ở Ấn Ðộ.

    Sa số: Số hột cát.

    Hằng hà sa số: Số hột cát của sông Hằng, ý nói số lượng nhiều lắm, như cát sông Hằng, không thể đếm hết được.

    Dẫn độ: Dẫn dắt và cứu giúp.

    Ðắc Pháp: Ðạt được Pháp, tức là biết rõ Thể pháp và Bí pháp của Ðạo.

  • Kinh Tận độ Vong linh: Kinh Sám Hối

    1. Kinh Sám Hối

    Kinh Sám Hối
    (Giọng Nam xuân)

    KINH:
    1. Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
    Ðấng Hóa Công xét kỹ ban ơn.
    Lòng đừng so thiệt tính hơn,
    Ngày đêm than thở dạ hờn ích chi.
    Người sang cả là vì duyên trước,
    Kẻ không phần luống ước cầu may.
    Sang giàu chẳng khác như mây,
    Khi tan khi hiệp đổi xây không thường.
    9. Việc sanh tử như đường chớp nhoáng,
    Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.
    Giữ cho trong sạch linh hồn,
    Rèn lòng sửa nết, đức tồn hậu lai.
    Ðiều họa phước không hay tìm tới,
    Tại mình vời nên mới theo mình.
    Cũng như bóng nọ tùy hình,
    Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.
    17. Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
    Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.
    Sao bằng ở phải buổi đầu,
    Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
    Người làm phước có khi mắc nạn,
    Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
    Ấy là nợ trước còn mang,
    Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.
    25. Nếu vội trách người trên thì đọa,
    Cũng có khi tai họa trả liền.
    Ðó là báo ứng nhãn tiền,
    Mau thì mình chịu, lâu truyền cháu con.
    Lo danh vọng hao mòn thân thể,
    Ham làm giàu của để bằng non.
    Một mai nhắm mắt đâu còn.
    Ðem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng.
    33. Trên đầu có bủa giăng Thần Thánh,
    Xét xem người tánh hạnh dữ hiền.
    Làm lành đặng hưởng phước duyên,
    Trong lòng nham hiểm, lộc quyền giảm thâu.
    Ðừng tính kế độc sâu trong dạ,
    Mà gổ ganh oán chạ thù vơ.
    Trái oan nào khác mối tơ,
    Rối rồi không gỡ, bao giờ cho ra.
    41. Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,
    Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn.
    Quấy rồi phải biết ăn năn,
    Ở cho nhân hậu, chế răn lòng tà.
    Hãy có dạ kỉnh già thương khó,
    Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.
    Xót thương đến kẻ tật nguyền,
    Ðỡ nâng yếu thế, binh quyền mồ côi.
    49. Làm con phải trau giồi hiếu đạo,
    Trước là lo trả thảo mẹ cha.
    Lòng thành thương tưởng ông bà,
    Nước nguồn cây cội mới là tu mi.
    Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,
    Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.
    Ở sao đáng phận đạo dâu,
    Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.
    57. Ðừng có cậy giàu sang chẳng nể,
    Không kiêng chồng, khi dể công cô.
    Ấy là những gái hung đồ,
    Xúi chồng tranh cạnh hồ đồ sân si.
    Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,
    Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.
    Ngày sau đọa chốn Âm Ty,
    Gông kềm khảo kẹp, ích gì rên la.
    65. Người tai mắt đạo nhà khá giữ,
    Nghĩa anh em cư xử thuận hòa.
    Vẹn tròn đạo cả giềng ba,
    Kính anh mến chị thì là phận em.
    Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,
    Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa.
    Cũng là một gốc sanh ra,
    Gồm bao nâng đỡ, ruột rà thương nhau.
    73. Người trung trực lo âu việc nước,
    Hưởng lộc vua tìm chước an bang.
    Chớ làm con giặc tôi loàn,
    Thuế sưu đóng đủ, đừng toan kế tà.
    Phận làm tớ thật thà trung tín,
    Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.
    Áo cơm no ấm hằng ngày,
    Của người châu cấp ơn dày nghĩa sâu.
    81. Ðừng gặp việc câu mâu biếng nhác,
    Mà quên lời phú thác dặn dò.
    Trước người giả bộ siêng lo,
    Sau lưng gian trá, so đo tấc lòng,
    Phải chừa thói loài ong tay áo,
    Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà,
    Gìn lòng ngay thẳng thật thà,
    Nói năng minh chánh, lời ra phải nhìn.
    89. Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại
    Ðừng gian mưu hãm hại người hiền.
    Anh em bằng hữu kết nguyền,
    Một lòng tin cậy, phải kiêng phải vì.
    Chẳng thấy khó mà khi mà thị,
    Gặp người giàu mà vị mà nâng.
    Dầu khi gặp lúc gian truân,
    Cũng đồng giúp ích, chớ đừng mặt ngơ.
    97. Làm người phải kỉnh thờ Thần Thánh,
    Giữ lời nguyền, tâm tánh tưởng tin.
    Hễ là niệm Phật tụng kinh,
    Rèn lòng sửa nết, khá in như nguyền.
    Chừa thói xấu đảo điên trong dạ,
    Muôn việc chi chẳng khá sai lời.
    Dối người nào khác dối Trời,
    Trời đâu dám dối, ra đời ngỗ ngang.
    105. Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,
    Mà dể duôi sanh biến lăng loàn.
    Con người có trí khôn ngoan,
    Tánh linh hơn vật, biết đàng lễ nghi.
    Phải cho biết kỉnh vì trên trước,
    Ðừng buông lời lấn lướt hồ đồ.
    Thuận cùng chú bác cậu cô,
    Bà con chòm xóm, ra vô khiêm nhường.
    113. Thấy già yếu hẹp đường nhượng tránh,
    Ðừng chỗ đông buông tánh quá vui.
    Cợt người ra dạ dể duôi,
    Sanh điều xích mích, đâu nguôi dạ hờn.
    Khi tế tự chớ lờn chớ dể,
    Việc quan hôn thủ lễ nghiêm trang.
    Gìn lòng chẳng khá lăng loàn,
    Lễ nghi vẹn giữ vững vàng chớ quên.
    121. Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức,
    Phước ấm no túc thực túc y.
    Thấy người gặp lúc tai nguy,
    Ra tay tế độ, ấy thì lòng nhơn.
    Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,
    Thấy trên đường miểng bát miểng chai.
    Hoặc là đinh nhọn, chông gai,
    Mau tay lượm lấy, đoái hoài kẻ sau.
    129. Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,
    Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.
    Bắc cầu, đắp sửa đường liền,
    Kẻ qua người lại bước yên gọn gàng.
    Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
    Ráng tập thành sửa tánh từ hòa.
    Việc lành chẳng khá bỏ qua,
    Tuy là nhỏ nhít cũng là công phu.
    137. Năng làm phải nhựt nhu ngoạt nhiễm,
    Lâu ngày dồn tính đếm có dư.
    Phước nhiều, tội quá tiêu trừ,
    Phép Trời thưởng phạt, không tư chẳng vì.
    Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,
    Thường dạn làm, tội lại hằng hà.
    Vì chưng tụ thiểu thành đa,
    Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.
    145. Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
    Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
    Làm người nhơn nghĩa xử xong,
    Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.
    Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội,
    Giúp cho người chớ vội khoe ra.
    Việc chi cũng có chánh tà,
    Làm điều phải nghĩa, lánh xa vạy vò.
    153. Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,
    Liệu sức mình cho hẳn sẽ làm.
    Chớ đừng thấy của dấy tham.
    Giục người làm quấy ắt cam đồng hình.
    Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,
    Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù.
    Trong đời rất hiếm võ phu,
    Lường cân tráo đấu, dối tu cúng chùa.
    161. Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,
    Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.
    Lương tâm thường xét cho rành,
    Của không phải nghĩa, chớ sanh lòng tà.
    Người quân tử chẳng thà chịu khổ,
    Ðâu làm điều nhục tổ hổ tông.
    Ðứa ngu thấy của thì mong,
    Không gìn tội lỗi, phép công nước nhà.
    169. Bày chước độc, xúi ra việc quấy,
    Tổn cho người mà lấy lợi riêng.
    Hễ nghe khua động đồng tiền,
    Sửa ngay làm vạy, không kiêng chút nào.
    Người nghèo khổ biết sao than kể,
    Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền.
    Làm quan tính kế đảo điên,
    Gạt thâu gia sản, đất điền của dân.
    177. Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,
    Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu.
    Trong lòng mưu chước rất sâu,
    Mai sau suy sụp, đáo đầu ra chi.
    Gái xướng kỵ, trai thì du đãng,
    Phá tan hoang gia sản suy vi.
    Làm người phải khá xét suy,
    Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.
    185. Còn một nỗi gian dâm đại tội,
    Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh.
    Tuy là Trời Ðất rộng thinh,
    Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.
    Lương tâm biết hổ ngươi chừa lỗi,
    Mới biệt phân sừng đội lông mang.
    Việc lành việc dữ đồn vang,
    Tuy là bóng khuất xương tan tiếng còn.
    193. Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,
    Chớ học đòi mèo mả gà đồng.
    Làm điều nhục nhã tổ tông,
    Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.
    Trai trung hiếu sửa trau ba mối,
    Ðừng buông lung lầm lỗi năm hằng.
    Hung hoang tội báo nghiệt căn,
    Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.
    201. Khá tiết kiệm hằng ngày no đủ,
    Tánh siêng năng lam lụ làm ăn.
    Lòng chừa biếng nhác kiêu căng,
    Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.
    Lòng Trời Ðất thương đều muôn vật,
    Ðức háo sanh Tiên Phật một màu.
    Thượng cầm hạ thú lao xao,
    Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.
    209. Nó cũng muốn như mình đặng sống,
    Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
    Bền công kinh sách xem coi,
    Vô can sát mạng, thiệt thòi rất oan.
    Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá.
    Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.
    Thương thay phá noãn lẫy lừng,
    Tội căn báo ứng, biết chừng nào an.
    217. Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,
    Cướp giựt rồi chém giết mạng người,
    Ðoàn năm, lũ bảy dạo chơi,
    Hiếp người lương thiện, phá đời hại dân.
    Tua khá tưởng thương lần nòi giống,
    Hãy xét vì mạng sống khó cầu.
    Cũng đừng bài bạc lận nhau,
    Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.
    225. Phải hiểu biết máy sâu họa kín,
    Thánh Thần đâu tư lịnh bỏ qua.
    Thường ngày tuần khắp xét tra,
    Phạt người hung ác, đọa sa A Tỳ.
    Sống dương thế, hành thì căn bịnh,
    Xui tai nàn dấp dính theo mình.
    Ăn năn khử ám hồi minh,
    Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.
    233. Ðừng cố oán thầm lo gây họa,
    Ðem lòng thù hăm dọa rấp đường.
    Ðốt nhà, phá cống, tháo mương,
    Nước tràn lụt ngập, ruộng vườn tan hoang.
    Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,
    Cho người hiền chịu lỗi vương mang.
    Khi hồn lìa khỏi trần gian,
    Hóa ra ngạ quỉ cơ hàn khổ thân.
    241. Ðời nhiều kẻ khi Thần thị Thánh,
    Ám muội lòng, tánh hạnh gổ ganh.
    Thấy ai làm phải làm lành,
    Xiểm gièm cho đặng khoe danh của mình.
    Lại còn có tánh tình hiểm độc,
    Xúi phân chia thân tộc ruột rà.
    Làm cho chồng vợ lìa xa,
    Cả đời nghiệt báo, oan gia chẳng rời.
    249. Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,
    Lánh kẻ tà, chẳng khá nên gần.
    Thí tiền thí bạc, chẩn bần,
    Người đau thí thuốc, Thánh Thần phước ban.
    Ðêm thanh vắng chớ toan mưu dối,
    Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ ngang.
    Âm đài gông tróng sẵn sàng,
    Chờ khi thác xuống, cổ mang hành hình.
    257. Các thơ truyện huê tình xé hủy,
    Kẻo để đời làm lụy luân thường.
    Nói lời tục tĩu không nhường,
    Tội hành cắt lưỡi, trăm đường ghê thay!
    Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,
    Tởi làm chùa, dối cậy in kinh.
    Ăn gian xới bớt cho mình,
    Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm Vương.
    265. Thêm những sãi giả nương cửa Phật,
    Của thập phương châu cấp thê nhi.
    Ngày sau đọa lạc Âm Ty,
    Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.
    Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,
    Ðốt ra tro bỏ chảy dòng sông.
    Thủy triều vận tải biển đông,
    Lòng hằng dường ấy, phước đồng ăn chay.
    273. Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,
    Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong,
    Làm ra lúa gạo dày công,
    Dầm mưa dan nắng kẻ nông nhọc nhằn.
    Nhờ Viêm Ðế đức cao ân nặng,
    Tìm lúa khoai, người đặng no lòng.
    Ngày ngày vọng niệm chớ vong,
    Chẳng nên hủy hoại mới phòng khỏi hoang.
    281. Chớ hiểm độc, dạ lang lần lựa,
    Nhơn thất mùa, bế vựa gắt gao.
    Chờ khi lúa phát giá cao,
    Khai ra bán mắc, Trời nào dung cho.
    Ơn trợ giúp khá lo đền báo,
    Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời.
    Túng cùng vay mượn của người,
    Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.
    289. Chớ oán chạ, tham lam ngược ngạo,
    Bội nghĩa ân, trở tráo chước sâu.
    Luân hồi thưởng phạt rất mầu,
    Chuyển thân tái thế, ngựa trâu công đền.
    Người phú túc vun nền âm đức,
    Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.
    Chớ sanh chước hiểm hẹp eo,
    Lời tăng quá vốn, kẻ nghèo xiết than.
    297. Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
    Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.
    Phật Trời nhơn vật đồng thương,
    Có đâu hưởng của bất lương mà mời.
    Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,
    Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi.
    Ðừng lòng nham hiểm hẹp hòi,
    Buông lời chửi rủa, đòn roi không từ.
    305. Tánh ác độc, tội dư tích trữ,
    Chốn Âm Cung luật xử nặng nề.
    Ðánh đòn khảo kẹp gớm ghê,
    Hành hình khổ não chẳng hề nới tay.
    Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,
    Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.
    Thánh Hiền kinh sách dạy bày,
    Lòng người ám muội, lỗi gây ra hoài.
    313. Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể,
    Rằng thác rồi còn kể ra chi.
    Nhãn tiền trả quả tức thì,
    Tội dư con cháu một khi đền bồi.
    Chớ quấy tưởng luân hồi phi lý,
    Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy.
    Thi hài như gỗ biết gì,
    Linh hồn là chủ thông tri việc đời.
    321. Lúc chung mạng, dứt hơi hồn xuất,
    Quỉ Vô thường sẵn chực đem đi.
    Dắt hồn đến chốn Âm Ty,
    Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.
    Người lương thiện ra vào thong thả,
    Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh,
    Phật Trời phép lạ hiển linh,
    Hành cho tan xác, huờn hình như xưa.
    329. Con bất hiếu, xay, cưa, đốt, giã,
    Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
    Chuyển thân trở lại trần gian,
    Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.
    Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
    Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.
    Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,
    Có chồng còn lại ngoại tình với trai.
    337. Kẻ tham lợi cột mai cột mối,
    Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon.
    Dỗ dành rù quến gái non,
    Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.
    Lòng lang độc vui cười hớn hở,
    Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.
    Gông kềm khảo kẹp lăng xăng,
    Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.
    345. Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
    Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.
    Giáo gươm bén nhọn tư bề,
    Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
    Hành đến chết huờn hồn sống lại,
    Cho đầu thai ở tại thanh lâu.
    Ngày đêm đưa rước chực chầu,
    Công bình Thiên đạo, phép mầu Chí Linh.
    353. Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh,
    Cối đạp đồng rất mạnh giã dần.
    Ấy là phạt kẻ lường cân,
    Ðo gian đong thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.
    Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
    Thấy tội nhân xúm lại phân thây.
    Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
    Khinh khi Tam giáo, đọa đày thế ni.
    361. Ao nước nóng sôi thì sục sục,
    Dầm cho người rã rục thịt xương.
    Cũng vì lòng dạ vô lương,
    Ðệ huynh bất mục, chẳng thương đồng bào.
    Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
    Thấy dùn mình táng đởm rất ghê,
    Thây người máu chảy dầm dề,
    Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.
    369. Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
    Tớ phản thầy, quan lại bất trung.
    Hành rồi giam lại Âm cung,
    Ngày đêm đánh khảo, trăng cùm xiềng gông.
    Hình bào lạc cột đồng vòi vọi,
    Ðốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.
    Trói người vào đó xát chà,
    Vì chưng hung bạo đốt nhà, bắn săn.
    377. Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
    Gặp tội nhân quào quấu xé thây.
    Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,
    Giết người lấy của bị nay hình nầy.
    Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,
    Xô người vào lội lặn nhờm thay.
    Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,
    Trồi lên hụp xuống, gậy cây đánh đầu.
    385. Ðể hành kẻ chứa xâu lường của,
    Trù ếm người, chửi rủa Tổ tông.
    Ðồ dơ giặt đổ rạch sông,
    Ðương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
    Vào bếp núc lúc nhơ không kể,
    Phơi áo quần chẳng nể Tam quang.
    Buông lời tục tĩu dâm loàn,
    Lâu mau nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.
    393. Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
    Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.
    Gạo cơm hủy hoại quen chừng,
    Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.
    Cột trói ngược quá kinh rất lạ,
    Quỉ Dạ Xoa đánh, vả, kẹp, cưa.
    Vì chưng chửi gió mắng mưa,
    Kêu tên Thần Thánh chẳng chừa chẳng kiêng.
    401. Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,
    Tra tội nhơn gian giảo ngược ngang.
    Hành người bế địch trợ hoang,
    Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.
    405. Thành Uổng Tử cheo leo gớm ghiếc,
    Cầm hồn oan rên siết khóc than.
    Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,
    Liều mình tự vận, không màng thảo ngay.
    Xuống Ðịa ngục, đọa đày hành mãi,
    Ðúng số rồi, còn phải luân hồi.
    Hóa công xem xét đền bồi,
    Lành siêu, dữ đọa, thêm nhồi tội căn.
    413. Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,
    Tội nhơn qua óc rởn dùn mình.
    Hụt chơn ván lại gập ghình,
    Nhào đầu xuống đó, cua kình rỉa thây.
    Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,
    Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.
    Gắp thây nuốt sống ăn tươi,
    Vì bày thưa kiện, móc bươi xúi lời.
    421. Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
    Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài.
    Phạt răn quến gái dụ trai,
    Bày ra thuốc độc phá thai tuyệt loài.
    Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
    Biết lạc lầm sám hối tội căn.
    Tu tâm sửa tánh ăn năn,
    Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.
    429. Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,
    Mà trong lòng chẳng thật kính thành.
    Lâm nguy miệng vái làm lành,
    Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
    Chớ thái quá, đừng lòng bất cập,
    Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.
    Làm lành, xem phải, nói ngay,
    Giữ ba điều ấy thiệt rày phước duyên.
    437. Lời kệ sám duy truyền khuyến thiện,
    Câu văn từ luận biện thật thà.
    Chẳng dùng những tiếng sâu xa,
    E không hiểu thấu, diễn ra ích gì!
    Chớ buông tiếng thị phi khinh dể,
    Rán làm lành phước để cháu con.
    Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,
    Muôn năm bóng khuất, tiếng còn bay xa.

    Chú thích Kinh Sám Hối.

    Trong phần chú thích các từ ngữ khó trong Kinh Sám Hối, soạn giả có đối chiếu bản Kinh Sám Hối in trong Kinh Thiên Ðạo và Thế Ðạo do Hội Thánh ấn hành, với bản Kinh Nhơn Quả, in trong quyển Kinh Cúng Tứ Thời cũng do Hội Thánh ấn hành vào năm 1928, và bản Kinh Sám Hối của Minh Lý Ðạo in năm 1973, để điều chỉnh cho đúng chánh tả một vài từ ngữ cho hợp với nghĩa lý của câu Kinh, và soạn giả có ghi trong phần KHẢO DỊ.

    Câu 1-8: Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,....

    GIẢI NGHĨA

    Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
    Ðấng Hóa Công xét kỹ ban ơn.
    Lòng đừng so thiệt tính hơn,
    Ngày đêm than thở dạ hờn ích chi.
    Người sang cả là vì duyên trước,
    Kẻ không phần luống ước cầu may.
    Sang giàu chẳng khác như mây,
    Khi tan khi hiệp đổi xây không thường.

    CHÚ THÍCH

    SÁM HỐI: Sám là ăn năn những lỗi lầm đã qua và thật lòng muốn sửa đổi, quyết không tái phạm; Hối là tự giận mình đã làm điều sái quấy. Sám hối là ăn năn và tự giận mình về những lỗi lầm do mình gây ra, tự nguyện sửa đổi, quyết không tái phạm.

    Sách Nho định nghĩa Sám Hối là: "Sám giả sám kỳ tiền khiên, Hối giả hối kỳ hậu quá." Nghĩa là: Sám là ăn năn lỗi trước, Hối là chừa bỏ lỗi sau.

    Hội Thánh có dặn rằng: "Kinh Sám Hối nầy nên tụng ngày Sóc Vọng, còn ngày thường lỡ có lầm lỗi điều chi, phải tụng mà xin tội."

    Danh lợi: Danh là tiếng tăm, lợi là lợi lộc. Danh lợi là tiếng tăm và lợi lộc. Ðó là 2 thứ mà người đời rất ham thích, muốn đoạt lấy về cho mình càng nhiều càng tốt.

    Cuộc danh lợi: Việc danh và lợi trong cuộc sống.

    Hóa công: Hóa là tạo hóa, Công là người thợ. Hoá công là ông Thợ Tạo Hóa, tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ và vạn vật. Ðó là Ông Trời, là Ðấng Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

    So thiệt tính hơn: So sánh hơn kém, tính toán lợi hại.

    Sang cả: Sang là cao quí, cả là lớn, nhiều. Sang cả là sang trọng lắm, vẻ vang lắm.

    Duyên trước: Chữ Hán là Tiền duyên, duyên là mối dây ràng buộc được định sẵn từ trước. Duyên trước là mối dây được dịnh sẵn từ kiếp trước. Nếu kiếp trước mình làm điều lương thiện đạo đức thì tạo được Duyên lành, khiến cho đời sống hiện tại được giàu sang vinh hiển hạnh phúc.

    Không phần: Chữ Hán là Vô phần, Phần là cái số phận mà Trời định sẵn cho mình. Vô phần hay Không phần là số phận bạc bẽo, vất vả, đau đớn ê chề. Nói là Trời định, chớ thật ra cái Nghiệp của mình định cho mình. Trời lập ra Luật Nhơn Quả, và cầm Cây Cân Công Bình thiêng liêng giữ cho sự báo ứng được đúng phép công bình.

    Luống: Nhiều lần.

    Luống ước: Mong ước nhiều lần.

    Cầu may: Mong cầu được may mắn.

    Hai câu 7-8: Sự giàu sang không bền bỉ, nó chẳng khác gì một đám mây trên bầu Trời, khi tan khi tụ rất mau chóng, không chừng mực.

    Muốn cho sự giàu sang được bền bĩ thì phải biết dùng tiền bạc bố thí, giúp đỡ người hoạn nạn nghèo khổ và làm những việc công đức khác như làm cầu, sửa đường, cất trường học, xây chùa, thì sẽ tạo được phước lành, hưởng được quả lành về sau.

    Câu 9-16: Việc sanh tử như đường chớp nhoáng,...

    GIẢI NGHĨA

    Việc sanh tử như đường chớp nhoáng,
    Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.
    Giữ cho trong sạch linh hồn,
    Rèn lòng sửa nết, đức tồn hậu lai.
    Ðiều họa phước không hay tìm tới,
    Tại mình vời nên mới theo mình.
    Cũng như bóng nọ tùy hình,
    Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.

    CHÚ THÍCH

    Việc sanh tử: Việc sống chết, chỉ một đời sống của con người từ lúc sanh ra cho đến lúc chết.

    Ðường chớp nhoáng: Ðường sáng răng cưa nhìn thấy trên bầu Trời do sấm sét gây ra, chỉ hiện ra trong giây lát rồi tắt. Ý nói: Khoảng thời gian rất ngắn.

    Bóng quang âm: Chỉ ngày và đêm. Bóng là ánh sáng, quang là sáng [ngày], âm là tối [đêm]. Dập dồn: Dồn dập.

    Trong sạch linh hồn: Linh hồn trong sạch trong một Chơn thần trong sạch, Chơn thần trong sạch trong một thể xác trong sạch. Muốn thể xác trong sạch thì phải giữ cho thân, khẩu, ý trong sạch, và phải ăn chay trường.

    Ðức tồn hậu lai: Cái đức tồn tại lâu dài về sau.

    Bóng nọ tùy hình: Cái hình thế nào thì cái bóng hiện ra thế ấy, ý nói: Nhơn nào thì quả nấy, không hề sai chạy.

    Câu 17-24: Khi vận thới lung lăng chẳng kể,...

    GIẢI NGHĨA

    Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
  • Kinh Tận độ Vong linh: Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối

    Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối
    (Giọng Nam xuân)

    KINH:
    1. Nghe lời khuyến thiện rất may,
    2. Nguyện lòng niệm Phật, ăn chay làm lành.
    3. Ngày ngày tập sửa tánh thành,
    4. Ðêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn.
    5. Một là hối ngộ tội căn,
    6. Hai là cầu đặng siêu thăng Cửu huyền.
    7. Ðương sanh hạnh hưởng phước duyên,
    8. Trong nhà già trẻ miên miên thái bình.
    9. Sau dầu đến chốn Diêm đình,
    10. Linh hồn trong sạch nhẹ mình thảnh thơi.
    11. Luân hồi trở lại trên đời,
    12. Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.
    13. Cầu xin trăm họ bình an,
    14. Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.

    GIẢI NGHĨA

    Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối do Ðức Ðông Phương Lão Tổ (một biệt hiệu của Ðức Thái Thượng Ðạo Quân) giáng cơ ban cho, tiếp nối ngay sau Bài Kinh Sám Hối.

    Khuyến thiện: Khuyên người ta làm lành.

    Nguyện lòng: Tự hứa chắc với lòng mình.

    Niệm Phật: Tụng kinh và niệm danh hiệu các vị Phật.

    Ăn chay: Ăn các loại thực phẩm là thảo mộc hay xuất phát từ thảo mộc, hoặc được chế biến từ thảo mộc.

    Còn Ăn mặn là ăn các thực phẩm là thịt động vật, hay xuất phát từ động vật, hoặc được chế biến từ động vật. Ăn tôm, cua, sò, ốc, khô mực, trứng gà, ... đều là Ăn mặn.

    Tánh thành: Tánh nết ngay thẳng thành thật.

    Tự tỉnh: Tự mình thức tỉnh để biết điều sái quấy mà sửa chữa.

    Tu hành: Tu là sửa, hành là làm. Tu hành là ăn ở, cư xử, làm đúng theo giới luật của tôn giáo.

    Hối ngộ: Hối hận và giác ngộ.

    Tội căn: Tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống trước.

    Siêu thăng: Bay vượt lên cao lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Ðương sanh: Ðang sống nơi cõi trần .

    Hạnh hưởng: May mắn được hưởng.

    Phước duyên: Hưởng được điều may mắn tốt đẹp do cái duyên lành trong kiếp trước tạo ra.

    Miên miên: Lâu dài mãi. Miên là lâu dài.

    Diêm đình: Triều đình của Diêm Vương cõi Âm phủ.

    Tiền công: Tiền là trước, công là công đức, công quả. Tiền công là công đức hay công quả đã làm được trong kiếp sống trước.

    Trăm họ: dịch chữ Bá tánh, chỉ dân chúng.

  • Kinh Tận độ Vong linh: Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần

    Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Hào quang chiếu chín từng mây bạc,
    Thần Thánh Tiên thừa hạc cỡi rồng.
    Ánh hào quang chiếu sáng Chín từng Trời có mây màu trắng bạc. Chư Thần, Thánh, Tiên, Ðấng thì cỡi hạc, Ðấng thì cỡi rồng.
    3.
    4.
    Phép linh thiệt rất chí công,
    Hóa sanh muôn vật, ngưỡng trông phước đời.
    Cái Pháp Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn rất công bình, hóa sanh ra vạn vật, trông ngóng điều tốt lành cho cõi đời.
    5.
    6.
    Trên điện ngọc, Vua Trời ngự giáng,
    Trước đền vàng phán đoán phân minh.
    Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế từ trên Linh Tiêu Ðiện đi xuống, đến trước Huỳnh Kim Khuyết xem xét công việc và quyết đoán một cách rõ ràng.
    7.
    8.
    Cõi trần, Trung giới thinh thinh,
    Phàm gian lao khổ đao binh tai nàn.
    Cõi trần và cõi Trung giới rộng lớn mênh mông, nhơn loại nơi cõi trần mệt nhọc khổ sở vì chiến tranh và tai nạn.
    9.
    10.
    Lòng Trời cảm cứu an lê thứ,
    Ðộ chúng sanh muôn xứ gội ơn.
    Tấm lòng của Ðức Thượng Ðế cảm động, giúp đỡ dân chúng được an ổn, cứu giúp chúng sanh ở khắp nơi và ban cho nhiều ơn huệ.
    11.
    12.
    Ðạo Nho truyền dạy nghĩa nhơn,
    Văn Tuyên Khổng Thánh khuyến dân răn đời.
    Ðức Khổng Thánh, Giáo chủ Ðạo Nho, truyền dạy về Nhân và Nghĩa, khuyên răn dân chúng.
    13.
    14.
    Ghi các sách ngàn lời để lại,
    Chép vào thơ vạn đại truyền ra.
    Các kinh sách xưa để lại, trong đó ghi chép biết bao lời hay ý đẹp của Thánh Hiền, truyền lại muôn đời.
    15.
    16.
    Tây phương cõi Phật chói lòa,
    Từ bi Phật Tổ hải hà độ dân.
    Cõi Cực Lạc Thế Giới ở hướng Tây là cõi Phật, ánh hào quang chiếu sáng rực rỡ. Ðức Phật Thích Ca, Tổ Sư Phật giáo, có lòng từ bi rộng lớn như sông như biển, cứu giúp dân chúng.
    17.
    18.
    Lòng cảm xót dương trần lận đận,
    Ra oai linh tiếp dẫn nhơn cầm.
    Lòng của Phật cảm động thương xót chúng sanh nơi cõi trần chịu nhiều nỗi khó khăn vất vả, nên Phật dùng oai quyền thiêng liêng để tiếp dẫn chúng sanh.
    19.
    20.
    Phổ Ðà có Phật Quan Âm.
    Ra công cứu thế, ân thâm đức dày.
    Ở Phổ Ðà Sơn có Ðức Phật Quan Âm đắc đạo, Ngài ra công cứu giúp người đời, ơn đức sâu dày.
    21.
    22.
    Nhiều kiếp đã đầu thai biết mấy,
    Xuống hồng trần khuyến dạy thương sanh.
    Ðây là nói về Ðức Phật Quan Âm, đã đầu thai xuống cõi trần rất nhiều kiếp để khuyên dạy nhơn sanh.
    23.
    24.
    Lão Quân ứng hóa Tam Thanh,
    Khuyên răn nhơn vật lòng lành chớ xao.
    Ðức Thái Thượng Lão Quân biến hóa và hiện ra Tam Thanh (ý nói pháp thuật rất cao siêu huyền diệu), thường khuyên răn chúng sanh, giữ được tấm lòng lành (Thiện tâm), chớ nên xao lãng.
    25.
    26.
    Cơ huyền diệu Ðạo Cao minh chánh,
    Hiển phép mầu ma lánh quỉ kiêng.
    Ðạo là cơ quan huyền diệu, cao siêu, sáng tỏ, chơn chánh. Hiện rõ ra các pháp thuật huyền diệu làm cho ma quỉ nể sợ tránh xa.
    27.
    28.
    Trừ yêu có Thánh Tề Thiên.
    Qui y Phật pháp ở miền Tây phương.
    Trừ diệt yêu quái thì có Tề Thiên Ðại Thánh. Ngài đã qui y theo Ðạo Phật ở cõi Tây phương Cực Lạc.
    29.
    30.
    Oai bốn hướng,Thần nhường quỉ sợ,
    Ðức ba giềng tế trợ thương sanh.
    Cái oai quyền của Ðức Quan Thánh trong khắp 4 phương, Thần phải nhường, quỉ phải sợ. Cái đức của Ngài là giữ vững Tam cang và cứu giúp nhơn sanh.
    31.
    32.
    Hớn Trào Quan Thánh bia danh,
    Trung can nghĩa khí háo sanh giúp đời.
    Ðức Quan Thánh hiển Thánh vào cuối thời nhà Hớn bên Tàu, để lại danh tiếng cho đời, gồm đủ Trung can Nghĩa khí, có đức Háo sanh giúp đời.
    33.
    34.
    Tuần ba cửa cõi Trời đều dụng,
    Xét bốn phương dân chúng dữ lành.
    Nơi cõi Trời, Ngài có nhiệm vụ tuần tra 3 cửa Trời. Nơi cõi trần, Ngài xem xét việc lành việc dữ của dân chúng khắp bốn phương.
    35.
    36.
    Linh Tiêu Thái Bạch Trường Canh,
    Truyền tâu Ðế Khuyết dữ lành nhơn gian.
    Ðức Lý Thái Bạch vào Linh Tiêu Ðiện, tâu bày với Ðức Chí Tôn các việc lành dữ của nhơn loại ở thế gian.
    37.
    38.
    Chí từ huệ giúp an lê thứ,
    Thông rõ đời nhơn sự kiết hung.
    Cái chí của Ngài là thương yêu và giúp nhơn sanh an ổn. Ngài biết rõ việc đời, việc người, việc lành việc dữ.
    39.
    40.
    Ðại Tiên ở chốn Thiên cung,
    Lòng lành thi phú thung dung độ người.
    Ðức Lý Thái Bạch là một vị Ðại Tiên ở Thiên Cung (cõi Trời), với tấm lòng lành, Ngài thảnh thơi dùng văn chương thi phú dạy dỗ và cứu giúp người đời.
    41.
    42.
    Ánh Xá lợi sáng ngời Cực Lạc.
    Hiện kim thân Bồ Tát hóa duyên.
    Ánh hào quang phát ra từ Chơn thần Ðức Phật làm sáng ngời cõi Cực Lạc Thế Giới. Chư vị Bồ Tát hiện ra Kim thân đi giáo hóa những người có duyên lành với Phật.
    43.
    44.
    Thiên cung Tinh Tú, Thánh, Tiên,
    Ðịa Kỳ, Thần Tướng đàn tiền giáng lâm.
    Nơi Thiên cung, các vị Tinh Quân, các vị Thánh và Tiên, các vị Thần Ðất, các vị Thần Tướng, xin giáng lâm trước đàn cúng tế.
    45.
    46.
    Lòng sở vọng lâm dâm tụng niệm,
    Xin giải nàn Nam Thiệm Bộ Châu.
    Lòng sở vọng mong cầu, lâm râm tụng kinh niệm Phật, cầu xin các Ðấng Thiêng liêng giải nạn cho nhơn loại nơi cõi trần thuộc Nam Thiệm Bộ Châu.
    47.
    48.
    Chúng sanh cảm đức cao sâu,
    Rèn lòng sửa nết lo âu làm lành.
    Chúng sanh cảm đội ơn đức cao sâu của Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng, lo tu tâm sửa tánh, và lo âu làm lành.

    Nguồn Gốc:

    Bài Xưng Tụng Công Ðức Phật Tiên Thánh Thần gồm 48 câu thơ song thất lục bát, do Ðức Thái Thượng Lão Quân giáng cơ ban cho 40 câu thơ đầu, Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật giáng tiếp cho thêm 8 câu chót là trọn bài, tại đàn cơ Minh Lý Ðạo vào đầu năm Ất Sửu (1925).

    Thuở Khai Ðạo, Ðức Chí Tôn dạy Phật giáo và Ngũ Chi Minh Ðạo dâng kinh cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nên Hội Thánh đến Minh Lý thỉnh bài Kinh nầy về làm Kinh Ðạo Cao Ðài.

    Câu 1-2: Hào quang chiếu chín từng mây bạc, Thần Thánh Tiên thừa hạc cỡi rồng.

    GIẢI NGHĨA

    Hào quang: Ánh sáng tỏa ra chung quanh, thấy giống như những cái lông nhọn túa ra. Ánh sáng nầy mát dịu chớ không nóng bức như ánh sáng mặt Trời.

    Chín từng mây bạc: 9 từng Trời có mây màu trắng bạc.

    Thừa hạc: Cỡi lên chim hạc.

    Câu 1-2: Ánh hào quang chiếu sáng Chín từng Trời có mây màu trắng bạc. Chư Thần, Thánh, Tiên, Ðấng thì cỡi hạc, Ðấng thì cỡi rồng.

    Câu 3-4: Phép linh thiệt rất chí công, Hóa sanh muôn vật, ngưỡng trông phước đời.

    GIẢI NGHĨA

    Phép linh: Cái Pháp thiêng liêng của Ðức Chí Tôn.

    "Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế Giới nên mới gọi là Pháp, Pháp có mới sanh ra CKVV rồi mới có người nên gọi là Tăng. Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Ðạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy." (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. I. 52).

    Câu 3-4: Cái Pháp Thiêng Liêng của Ðức Chí Tôn rất công bình, hóa sanh ra vạn vật, trông ngóng điều tốt lành cho cõi đời.

    Câu 5-6: Trên điện ngọc, Vua Trời ngự giáng, Trước đền vàng phán đoán phân minh.

    GIẢI NGHĨA

    Ðiện ngọc: Cung điện bằng ngọc, đó là Linh Tiêu Ðiện trong Ngọc Hư Cung, nơi Ðức Chí Tôn họp Thiên triều.

    Vua Trời: Ðức Chí Tôn.

    Ngự giáng: Ðức Chí Tôn đi xuống.

    Ðền vàng: Ðền của vua làm bằng vàng ròng, đó là Huỳnh Kim Khuyết.

    Câu 5-6: Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế từ trên Linh Tiêu Ðiện đi xuống, đến trước Huỳnh Kim Khuyết xem xét công việc và quyết đoán một cách rõ ràng.

    Câu 7-8: Cõi trần, Trung giới thinh thinh, Phàm gian lao khổ đao binh tai nàn.

    GIẢI NGHĨA

    Trung giới: Trung giái, là cõi trung gian giữa Hạ giới và Thượng giới. Hạ giới là cõi trần, Thượng giới là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

    Ấy là sự phân chia Càn Khôn Vũ Trụ làm 3 cõi giới một cách tổng quát của các Thánh Hiền xưa.

    Ðao binh: chỉ cảnh chiến tranh. Ðao là cây đao, vũ khí đánh giặc thời xưa; binh là lính.

    Câu 7-8: Cõi trần và cõi Trung giới rộng lớn mênh mông, nhơn loại nơi cõi trần mệt nhọc khổ sở vì chiến tranh và tai nạn.

    Câu 9-10: Lòng Trời cảm cứu an lê thứ, Ðộ chúng sanh muôn xứ gội ơn.

    GIẢI NGHĨA

    Cảm: Mối rung động trong lòng.

    Lê thứ: Dân chúng.

    Câu 9-10: Tấm lòng của Ðức Thượng Ðế cảm động, giúp đỡ dân chúng được an ổn, cứu giúp chúng sanh ở khắp nơi và ban cho nhiều ơn huệ.

    Câu 11-12: Ðạo Nho truyền dạy nghĩa nhơn, Văn Tuyên Khổng Thánh khuyến dân răn đời.

    GIẢI NGHĨA

    Nghĩa Nhân: 2 điều căn bản trong giáo lý Nho giáo. Nhân là tình thương yêu rộng lớn, nghiêng về tình cảm; Nghĩa là việc làm chánh đáng theo lẽ phải, nghiêng về lý trí. Hai mặt Nhân và Nghĩa cần đi liền nhau, bổ sung cho nhau. Nhân là nơi yên ổn của con người, Nghĩa là con đường chánh của con người: Ở thì theo đạo Nhân, làm thì noi theo đường Nghĩa.

    Văn Tuyên: Văn Tuyên Vương, tên thụy của Ðức Khổng Tử.

    Câu 11-12: Ðức Khổng Thánh, Giáo chủ Ðạo Nho, truyền dạy về Nhân và Nghĩa, khuyên răn dân chúng.

    Câu 13-14: Ghi các sách ngàn lời để lại, Chép vào thơ vạn đại truyền ra.

    GIẢI NGHĨA

    Thơ: tức là Thư: sách.

    Vạn đại: Muôn đời. Ðại là đời.

    Câu 13-14: Các kinh sách xưa để lại, trong đó ghi chép biết bao lời hay ý đẹp của Thánh Hiền, truyền lại muôn đời.

    Câu 15-16: Tây phương cõi Phật chói lòa, Từ bi Phật Tổ hải hà độ dân.

    GIẢI NGHĨA

    Tây phương cõi Phật: Cõi Cực Lạc Thế Giới là cõi của chư Phật.

    Phật Tổ: Ðức Phật Thích Ca.

    Hải hà: Hải là biển, hà là sông. Hải hà là sông biển, ý nói lòng dạ rộng rãi như sông biển.

    Câu 15-16: Cõi Cực Lạc Thế Giới ở hướng Tây là cõi Phật, ánh hào quang chiếu sáng rực rỡ. Ðức Phật Thích Ca, Tổ Sư Phật giáo, có lòng từ bi rộng lớn như sông như biển, cứu giúp dân chúng.

    Câu 17-18: Lòng cảm xót dương trần lận đận, Ra oai linh tiếp dẫn nhơn cầm.

    GIẢI NGHĨA

    Cảm xót: Cảm động thương xót.

    Dương trần: Cõi trần, cõi của nhơn loại đang sống.

    Nhơn cầm: Loài người và loài chim, ý nói Chúng sanh nơi cõi trần.

    Câu 17-18: Lòng của Phật cảm động thương xót chúng sanh nơi cõi trần chịu nhiều nỗi khó khăn vất vả, nên Phật dùng oai quyền thiêng liêng để tiếp dẫn chúng sanh.

    Câu 19-20: Phổ Ðà có Phật Quan Âm. Ra công cứu thế, ân thâm đức dày.

    GIẢI NGHĨA

    Phổ Ðà: Phổ Ðà Sơn ở biển Nam Hải, là nơi Công Chúa Diệu Thiện tu hành đắc quả, hiệu là Quan Thế Âm Bồ Tát.

    Ân thâm đức dày: Ơn đức sâu dày.

    Câu 19-20: Ở Phổ Ðà Sơn có Ðức Phật Quan Âm đắc đạo, Ngài ra công cứu giúp người đời, ơn đức sâu dày.

    Câu 21-22: Nhiều kiếp đã đầu thai biết mấy, Xuống hồng trần khuyến dạy thương sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Hồng trần: Bụi đỏ, chỉ cõi trần.

    Thương sanh: Nhơn sanh.

    Câu 21-22: Ðây là nói về Ðức Phật Quan Âm, đã đầu thai xuống cõi trần rất nhiều kiếp để khuyên dạy nhơn sanh.

    Ðức Phật Quan Âm, Ngài còn muốn làm một vị Bồ Tát để cứu độ chúng sanh, nên Ngài xưng là Quan Thế Âm Bồ Tát, được Ðức Chí Tôn giao nhiệm vụ Nhị Trấn Oai Nghiêm của Ðạo Cao Ðài, cầm quyền Phật giáo thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

    Câu 23-24: Lão Quân ứng hóa Tam Thanh, Khuyên răn nhơn vật lòng lành chớ xao.

    GIẢI NGHĨA

    Lão Quân: Ðức Lão Tử là một kiếp giáng trần của Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ, mở Tiên giáo thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, nên được gọi là Thái Thượng Lão Quân.

    Ứng hóa: Ứng là hiện ra để đáp lại, hóa là biến hóa. Ứng hoá là biến hóa hiện ra để đáp lại.

    Tam Thanh: Ba Thanh: Thái Thanh, Thượng Thanh và Ngọc Thanh.

    Câu 23-24: Ðức Thái Thượng Lão Quân biến hóa và hiện ra Tam Thanh (ý nói pháp thuật rất cao siêu huyền diệu), thường khuyên răn chúng sanh, giữ được tấm lòng lành (Thiện tâm), chớ nên xao lãng.

    Câu 25-26: Cơ huyền diệu Ðạo Cao minh chánh, Hiển phép mầu ma lánh quỉ kiêng.

    GIẢI NGHĨA

    Cơ huyền diệu: Cơ quan huyền diệu, đó là Thiên cơ, Máy Trời.

    Ðạo Cao: Cái Ðạo cao siêu. Ðạo Cao còn có thể hiểu là Ðạo Cao Ðài do Ðức Chí Tôn sáng lập.

    Minh chánh: Sáng tỏ, ngay thẳng.

    Hiển: Hiện ra. Phép mầu: Pháp thuật huyền diệu.

    Câu 25-26: Ðạo là cơ quan huyền diệu, cao siêu, sáng tỏ, chơn chánh. Hiện rõ ra các pháp thuật huyền diệu làm cho ma quỉ nể sợ tránh xa.

    Câu 27-28: Trừ yêu có Thánh Tề Thiên. Qui y Phật pháp ở miền Tây phương.

    GIẢI NGHĨA

    Thánh Tề Thiên: Tề Thiên Ðại Thánh.

    Qui y Phật pháp: Qui y theo Ðạo Phật. Qui y là nguyện tin và làm đúng theo lời Phật dạy, quyết gởi trọn đời mình cho Ðạo pháp.

    Câu 27-28: Trừ diệt yêu quái thì có Tề Thiên Ðại Thánh. Ngài đã qui y theo Ðạo Phật ở cõi Tây phương Cực Lạc.

    Theo truyện Tây Du, Tề Thiên Ðại Thánh loạn Thiên Cung, bị Phật Tổ bắt, phạt đè dưới Ngũ Hành Sơn 500 năm.

    Nhà sư Tam Tạng đi ngang, được Phật Tổ chấp thuận cho cứu Tề Thiên khỏi nạn núi đè, thâu làm đồ đệ. Tề Thiên bảo hộ Tam Tạng đi Tây phương thỉnh kinh. Nhờ công quả nầy, Tề Thiên đắc Phật vị, hiệu là Chiến Ðấu Thắng Phật.

    Câu 29-30: Oai bốn hướng,Thần nhường quỉ sợ, Ðức ba giềng tế trợ thương sanh.

    GIẢI NGHĨA

    Bốn hướng: Bốn phương, ý nói khắp nơi.

    Tế trợ: Tế là giúp đỡ, trợ là giúp cho.

    Ba giềng: Tam cang.

    Câu 29-30: Cái oai quyền của Ðức Quan Thánh trong khắp 4 phương, Thần phải nhường, quỉ phải sợ. Cái đức của Ngài là giữ vững Tam cang và cứu giúp nhơn sanh.

    Câu 31-32: Hớn Trào Quan Thánh bia danh, Trung can nghĩa khí háo sanh giúp đời.

    GIẢI NGHĨA

    Hớn trào Quan Thánh: Ngài là Quan Vân Trường, được nhà Hán phong chức Hớn Thọ Ðình Hầu (thời Tam Quốc), khi chết thì hiển Thánh, hiệu là Quan Thánh Ðế Quân.

    Bia danh: Cái danh tiếng để lại cho đời sau.

    Trung can: Trung thành và can đảm.

    Nghĩa khí: Lòng dạ cứng cỏi ưa chuộng điều phải, ghét điều sái quấy tà gian.

    Háo sanh: Ưa thích sự sống.

    Câu 31-32: Ðức Quan Thánh hiển Thánh vào cuối thời nhà Hớn bên Tàu, để lại danh tiếng cho đời, gồm đủ Trung can Nghĩa khí, có đức Háo sanh giúp đời.

    Ðức Quan Thánh, sau khi đắc vị Thánh, Ngài dùng oai đức cứu độ chúng sanh, diệt quỉ trừ ma giúp đời. Nhờ công đức nầy, về sau Ngài đắc quả Cái Thiên Cổ Phật. Trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ngài được Ðức Chí Tôn giao cho nhiệm vụ Ðệ Tam Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Nho giáo.

    Câu 33-34: Tuần ba cửa cõi Trời đều dụng, Xét bốn phương dân chúng dữ lành.

    GIẢI NGHĨA

    Hai câu nầy bắt đầu nói về Ðức Lý Thái Bạch:

    Câu 33-34: Nơi cõi Trời, Ngài có nhiệm vụ tuần tra 3 cửa Trời. Nơi cõi trần, Ngài xem xét việc lành việc dữ của dân chúng khắp bốn phương.

    Câu 35-36: Linh Tiêu Thái Bạch Trường Canh, Truyền tâu Ðế Khuyết dữ lành nhơn gian.

    GIẢI NGHĨA

    Linh Tiêu: Linh Tiêu Ðiện trong Ngọc Hư Cung, nơi họp triều đình của Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

    Thái Bạch Trường Canh: Sao Thái Bạch, còn được gọi là sao Trường Canh. Ðó là Sao Kim hay Kim Tinh, nhập chung lại gọi là Thái Bạch Kim Tinh. Vì sao Thái Bạch có một lần đầu kiếp xuống trần, vào nhà họ Lý, đời Ðường bên Tàu. Bà mẹ có thai, chiêm bao thấy sao Thái Bạch rơi vào lòng bà, liền sanh ra Ngài, nên đặt tên Lý Thái Bạch, gọi tắt Lý Bạch.

    Hiện nay, thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ðức Lý Thái Bạch là một vị Ðại Tiên Trưởng, lãnh nhiệm vụ Nhứt Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Tiên giáo, và lại được Ðức Chí Tôn giao cho kiêm nhiệm chức Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Như vậy, Ðạo Cao Ðài có một vị Giáo Tông đầu tiên là Ðức Lý Thái Bạch, ở cõi thiêng liêng, với Tịch Ðạo đầu tiên là Thanh Hương.

    Ðế Khuyết: Ðấng Thượng Ðế nơi Huỳnh Kim Khuyết.

    Câu 35-36: Ðức Lý Thái Bạch vào Linh Tiêu Ðiện, tâu bày với Ðức Chí Tôn các việc lành dữ của nhơn loại ở thế gian.

    Câu 37-38: Chí từ huệ giúp an lê thứ, Thông rõ đời nhơn sự kiết hung.

    GIẢI NGHĨA

    Chí: Cái ý muốn mạnh mẽ.

    Từ: Lòng thương yêu chúng sanh.

    Huệ: Lòng nhân ái, thương người.

    Lê thứ: Dân chúng.

    Nhơn sự: Việc người.

    Kiết: Lành.

    Hung: Dữ.

    Câu 37-38: Cái chí của Ngài là thương yêu và giúp nhơn sanh an ổn. Ngài biết rõ việc đời, việc người, việc lành việc dữ.

    Câu 39-40: Ðại Tiên ở chốn Thiên cung, Lòng lành thi phú thung dung độ người.

    GIẢI NGHĨA

    Câu 39-40: Ðức Lý Thái Bạch là một vị Ðại Tiên ở Thiên Cung (cõi Trời), với tấm lòng lành, Ngài thảnh thơi dùng văn chương thi phú dạy dỗ và cứu giúp người đời.

    KHẢO DỊ:
    - Kinh Sám Hối. MLÐ, Kinh Lễ, Kinh TÐ-TÐ 1936: Thiên cung.
    - Kinh TÐ-TÐ 1968, 1974, 1975: Tiên cung.

    Câu 41-42: Ánh Xá lợi sáng ngời Cực Lạc. Hiện kim thân Bồ Tát hóa duyên.

    GIẢI NGHĨA

    Xá lợi: Chơn thần của Ðức Phật.

    Ánh Xá lợi: Ánh hào quang phát ra từ Chơn thần Ðức Phật.

    Kim thân: Mình vàng.

    Hóa duyên: Hóa là cầu xin, duyên là mối dây ràng buộc. Hóa duyên là nhà sư đi quyên tiền làm việc công đức như xây chùa, đúc tượng, khiến người ta đóng góp tiền bạc, tức là giúp người ta kết duyên lành với Phật.

    Hóa còn có nghĩa là Giáo hóa. Trong trường hợp nầy, Hóa duyên là nhân duyên giáo hóa. Phật hay Bồ Tát đến cõi đời nầy là vì có nhân duyên giáo hóa nhơn sanh. Khi nhân duyên ấy hết thì Phật liền trở về ngay.

    Câu 41-42: Ánh hào quang phát ra từ Chơn thần Ðức Phật làm sáng ngời cõi Cực Lạc Thế Giới. Chư vị Bồ Tát hiện ra Kim thân đi giáo hóa những người có duyên lành với Phật.

    Câu 43-44: Thiên cung Tinh Tú, Thánh, Tiên, Ðịa Kỳ, Thần Tướng đàn tiền giáng lâm.

    GIẢI NGHĨA

    Thiên cung: chỉ Cõi Trời.

    Tinh tú: Các vì sao, ý nói các vị Tinh Quân.

    Ðịa Kỳ: Ðịa là đất, Kỳ là Ông Thần đất. Ðịa Kỳ là các vị Thần đất.

    Thần Tướng: Các vị Thần làm tướng trấn nhậm ở các địa phương.

    Ðàn tiền: Trước đàn cúng tế.

    Giáng lâm: Ði xuống tới. Giáng là đi xuống, lâm là tới.

    Câu 43-44: Nơi Thiên cung, các vị Tinh Quân, các vị Thánh và Tiên, các vị Thần Ðất, các vị Thần Tướng, xin giáng lâm trước đàn cúng tế.

    Câu 45-46: Lòng sở vọng lâm dâm tụng niệm, Xin giải nàn Nam Thiệm Bộ Châu.

    GIẢI NGHĨA

    Sở vọng: Ðiều quan trọng mà mình hằng mong ước.

    Nam Thiệm Bộ Châu: Một Châu lớn trong Tứ Ðại Bộ Châu nơi cõi thiêng liêng. Cõi trần, tức là Ðiạ cầu 68 của nhơn loại thuộc về Nam Thiệm Bộ Châu.

    Câu 45-46: Lòng sở vọng mong cầu, lâm râm tụng kinh niệm Phật, cầu xin các Ðấng Thiêng liêng giải nạn cho nhơn loại nơi cõi trần thuộc Nam Thiệm Bộ Châu.

    Câu 47-48: Chúng sanh cảm đức cao sâu, Rèn lòng sửa nết lo âu làm lành.

    GIẢI NGHĨA

    Câu 47-48: Chúng sanh cảm đội ơn đức cao sâu của Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng Liêng, lo tu tâm sửa tánh, và lo âu làm lành.

  • Kinh Tận độ Vong linh: Giới Tâm Kinh

    Giới Tâm Kinh
    (Giọng Nam xuân)

    KINH: GIẢI NGHĨA:
    1.
    2.
    Vọng Thượng Ðế chứng lòng thành tín,
    Chúng sanh đồng bái kỉnh khẩn nguyền.
    Trông mong Ðức Chí Tôn chứng lòng thành thật tín ngưỡng. Chúng sanh đồng kính lạy và tha thiết cầu xin.
    3.
    4.
    Nguyền cho trăm họ bình yên,
    Nhà nhà no ấm khỏi phiền khỏi than.
    Cầu xin cho dân chúng (Bá tánh) được bình yên, mọi nhà đều được no ấm, không còn phiền não, không còn than van.
    5.
    6.
    Nguyền Khổng Thánh bảo toàn Nho giáo,
    Lấy nghĩa nhân Ðại Ðạo truyền ra.
    Cầu xin Ðức Khổng Thánh bảo toàn Nho giáo. Ðạo Cao Ðài với chủ trương Nho Tông Chuyển Thế, lấy 2 điều căn bản Nhân và Nghĩa của Nho giáo truyền rộng ra.
    7.
    8.
    Tây phương Phật Tổ, Di-Ðà,
    Nam Hải Phổ Ðà có Phật Quan Âm.
    Nơi Cực Lạc Thế Giới, có Ðức Phật Thích Ca và Ðức A-Di-Ðà Phật. Nơi Phổ Ðà Sơn biển Nam Hải có Ðức Phật Quan Âm.
    9.
    10.
    Lẽ báo ứng cao thâm huyền diệu,
    Cho chúng sanh đặng hiểu răn mình.
    Lẽ báo ứng của Trời Ðất rất cao sâu huyền diệu, để cho chúng sanh hiểu rõ mà răn mình.
    11.
    12.
    Ðạo Quân đức hóa háo sinh,
    Rộng quyền máy nhiệm an linh cứu đời.
    Ðức Thái Thượng Ðạo Quân dùng đức cảm hóa nhơn sanh, hạp tánh háo sanh của Thượng Ðế, nắm giữ Máy Trời mầu nhiệm, an ổn Thiêng Liêng, rộng quyền cứu giúp nhơn sanh.
    13.
    14.
    Xin xót thương con người ngây dại,
    Phép huyền hư truyền dạy thế gian.
    Xin xót thương con người còn khờ dại, xin truyền dạy Phép luyện đạo huyền diệu để luyện cho Chơn thần đến chỗ huờn hư đắc đạo.
    15.
    16.
    Mong nhờ lịnh Ðức Thánh Quan,
    Ra oai tiêu diệt cho tàn ác ma.
    Mong nhờ Ðức Quan Thánh Ðế Quân ra oai tiêu diệt cho hết sạch lũ quỉ ma độc ác hại người.
    17.
    18.
    Trường Canh chói rạng lòa Kim Khuyết,
    Xin ban ơn giải nghiệt cho đời.
    Sao Thái Bạch chiếu sáng Huỳnh Kim Khuyết, ý nói: Ðức Lý Thái Bạch vào Huỳnh Kim Khuyết chầu Ðức Chí Tôn, xin Ðức Chí Tôn ban ơn cởi bỏ hết các ác nghiệp cho đời.
    19.
    20.
    Tề Thiên Ðại Thánh để lời,
    Thiện nam, Tín nữ nghe thời phải vưng.
    Tề Thiên Ðại Thánh để lời bảo các tín đồ Nam Nữ, hãy nghe lời dạy bảo và phải vâng theo.
    21.
    22.
    Chớ tự phụ, cũng đừng khi ngạo,
    Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai.
    Chớ nên tự phụ, cũng đừng khinh rẻ ngược ngạo. Luật Trời hằng sắp đặt việc quả báo chẳng hề sai chạy.
    23.
    24.
    Lời khuyên già trẻ gái trai,
    Khá tua sửa nết, ăn chay làm lành.
    Lời khuyên cho tất cả Nam, Nữ, già, trẻ, phải nên sửa đổi tánh nết cho tốt đẹp, phải ăn chay và làm lành.
    25.
    26.
    Ðấng Tạo Hóa hóa sanh muôn vật,
    Phú cho người tánh rất linh thông.
    Ðấng Thượng Ðế sanh ra vạn vật, ban cho con người một cái tánh rất thiêng liêng và hiểu biết rõ.
    27.
    28.
    Ðặt ra có họ có dòng,
    Vua, Thầy, cha mẹ, vợ chồng, cháu con.
    Ðặt ra cho mỗi người có dòng họ tổ tiên, có Vua, có Thầy, có Cha mẹ, có vợ chồng, có con cháu.
    29.
    30.
    Tình huynh đệ tày non tợ biển,
    Nghĩa hữu bằng phải kiếng phải tin.
    Tình thương yêu giữa anh em ruột thịt nặng như núi, sâu như biển. Cái nghĩa giữa bạn bè là phải kính trọng nhau, tin cậy nhau.
    31.
    32.
    Cang tam Thường ngũ phải gìn,
    Chứa đức làm lành, làm phước, làm doan.
    Phải gìn giữ Tam cang và Ngũ thường. Muốn chứa đức thì phải làm lành, làm phước, làm duyên.
    33.
    34.
    Gặp người đói rách khốn nàn,
    Ra tay chẩn cứu cho toàn nghĩa nhân.
    Khi gặp người đói rách đang hoạn nạn khổ sở, phải ra tay chẩn cứu, mới trọn vẹn 2 chữ nhân nghĩa.
    35.
    36.
    Mựa chớ ham giọng đờn tiếng quyển,
    Thói dâm phong rù quến nguyệt hoa.
    Chớ có ham mê theo lời ngon ngọt, quyến rũ vào thói ăn chơi dâm đảng, đi vào các cuộc tình ái lãng mạn.
    37.
    38.
    Có ngày hư nát cửa nhà,
    Xa gần đồn tiếng thúi tha vô cùng.
    Có ngày phải bị hư nhà nát cửa, tiếng xấu đồn vang, xa gần đều biết, thật là thúi tha hổ thẹn vô cùng.
    39.
    40.
    Trường đổ bác cũng đừng léo tới,
    Phường trăng hoa hát bội khá từ.
    Ðừng bén mảng tới những nơi cờ bạc. Nên từ bỏ đám trai gái trăng hoa lãng mạn và bọn đờn ca xướng hát.
    41.
    42.
    Những điều nhơ nhuốc phải chừa,
    Hỗn hào mắng nhiếc, nói thừa nói thêm.
    Phải chừa những điều xấu xa nhục nhã, không được hỗn hào mắng nhiếc người trên, không được nói thêm nói bớt cho sai sự thật.
    43.
    44.
    Nơi Ðịa ngục gông kềm sẵn đủ,
    Ðể răn loài dâm phụ gian phu.
    Nơi Ðịa ngục, có sẵn hai hình cụ là: Gông và Kềm, để trừng trị những kẻ dâm phụ, gian phu.
    45.
    46.
    Ai ai bền chí mà tu,
    Phước đem đổi tội cho phu dễ gì?
    Mọi người nên bền chí tu hành. Ðem phước đức mà đổi lấy tội tình cho vừa đủ cũng không phải là chuyện dễ dàng gì!
    47.
    48.
    Dễ gì lộn kiếp đặng làm người,
    May đặng làm người chớ dể duôi.
    Trở lại đầu thai làm một con người nơi cõi trần, không phải là điều dễ dàng. Ðó là một điều may mắn, chớ nên coi thường.
    49.
    50.
    Lành dữ hai đường vừa ý chọn,
    Lành như tòng, dữ tợ hoa tươi.
    Con người có lý trí suy nghĩ, nên có 2 con đường: lành và dữ, mà tùy ý chọn lựa. Con đường lành thì bền bỉ như cây tòng; con đường dữ chóng tàn như cái hoa tươi.
    51.
    52.
    Hoa tươi, tòng bá khác nhau xa,
    Tòng bá xơ rơ kém sắc hoa.
    Ðoá hoa tươi và cây tòng cây bá khác nhau xa: tòng bá thì xơ rơ, hoa tươi thì màu sắc rực rỡ.
    53.
    54.
    Gặp tiết đông Thiên sương tuyết bủa,
    Chỉ còn tòng bá, chẳng còn hoa.
    Gặp tiết trời mùa đông, có sương và tuyết bao phủ, cây tòng cây bá thì đứng trơ trơ vững vàng, còn hoa kia thì rơi rụng vì chịu không nổi sương tuyết.
    55.
    56.
    Còn hoa mà lại ích chi đâu,
    Ðẹp dáng tươi màu đặng mấy lâu?
    Nếu đóa hoa còn thì có ích lợi gì đâu? Hình dáng và màu hoa tươi đẹp, nhưng kéo dài được bao lâu?
    57.
    58.
    Thử sánh ngọn đèn cùng bóng nguyệt,
    Gió day đèn tắt, nguyệt làu làu.
    Thử so sánh ngọn đèn với ánh sáng của mặt trăng, khi gió thổi qua hướng khác thì đèn tắt, còn ánh trăng vẫn sáng vằng vặc.
    59.
    60.
    Làu làu một tấm tợ đài gương, Trung hiếu,
    tiết trinh vẹn mọi đường.
    Như một tấm gương soi thật trong sáng, Nam thì trung hiếu, Nữ thì tiết trinh, giữ cho được vẹn toàn mọi bề.
    61.
    62.
    Sang cả mặc người đừng bợ đỡ, Hoạnh tài,
    trơ mắt khỏi tai ương.
    Người ta giàu có sang trọng thì mặc người ta, đừng theo nịnh hót bợ đỡ, mình nên giữ lấy phận mình.
    63.
    64.
    Tai ương hoạn họa luống ưu sầu,
    Vì bởi hay bày chước hiểm sâu.
    Tai ương hoạn nạn gây ra lắm nỗi lo buồn, là bởi vì hay bày đặt mưu kế nham hiểm sâu độc hại người.
    65.
    66.
    Lập kế đồ mưu âm hại chúng,
    Kiếp sau mang lấy lốt heo trâu.
    Sắp đặt mưu kế để âm thầm hãm hại người thì phải mang tội nặng, khi chết rồi, linh hồn phải đầu kiếp trở lại cõi trần làm thân heo hay trâu mà đền tội.
    67.
    68.
    Heo trâu thân thể mạt hèn thay,
    Mãn kiếp lại còn bị xẻ thây.
    Mang kiếp làm heo trâu thật là thấp hèn, khi chết rồi thì thân thể còn bị xẻ ra làm thịt.
    69.
    70.
    Lộng lộng lưới Trời tuy sếu sáo,
    Thưa mà chẳng lọt mảy lông mày.
    Lưới Trời cao rộng mênh mông, tuy coi lung lay yếu ớt nhưng một chút nhỏ cũng không qua lọt.
    71.
    72.
    Mày râu đứng giữa cõi trần gian,
    Gắng sức chống cho vững miếu đàng.
    Phận làm trai đứng giữa cõi trần gian, phải cố gắng ra sức chống chỏi cho bền vững nước nhà.
    73.
    74.
    Phận gái Tam Tùng cùng Tứ Ðức, Tề gia,
    nội trợ vẹn là ngoan.
    Phận làm đàn bà con gái thì phải giữ Tam Tùng và Tứ Ðức. Phải lo việc tề gia nội trợ cho hoàn toàn mới phải là gái ngoan.
    75.
    76.
    Ngoan ngùy chơn chánh Phật Thần thương,
    Chơn chánh liên hòa với thiện lương.
    Phật và Thần, nói chung là các Ðấng Thiêng liêng đều thương mến những người ngoan ngùy, chơn chánh.
    77.
    78.
    Thần Thánh thành do người chánh thiện,
    Thiện lương chơn chánh đức không lường.
    Người thiện lương chơn chánh mới có thể đắc thành Thần Thánh. Có thiện lương chơn chánh mới tạo được nhiều phước đức không lường hết được.
    79.
    80.
    Không lường kẻ thiện với người hung,
    Bợ đỡ giàu sang, phụ khốn cùng.
    Không thể biết rõ được kẻ nào lành, kẻ nào dữ. Thói thường thì nịnh hót người giàu, phụ bạc kẻ nghèo khổ.
    81.
    82.
    Ngoài mặt giả tuồng người trượng nghĩa,
    Trong lòng dối kết chút tình chung.
    Bề ngoài thì giả bộ là người trọng nghĩa, nhưng trong lòng thì dối trá làm như là có tình cảm chung thủy.
    83.
    84.
    Tình chung đặng cậy thế người sang,
    Mượn tiếng khua môi với xóm làng.
    Giả bộ có tình cảm chung thủy đặng dựa vào thế lực của kẻ sang giàu, mượn đó đặng khoác lác khoe khoang với những người trong làng trong xóm.
    85.
    86.
    Lời dạy Thần Tiên không kể đến,
    Ðạo mầu chẳng cứ, cứ khoe khoang.
    Lời dạy bảo của các Ðấng Thần, Tiên thì không kể đến, con đường Ðạo đức mầu nhiệm thì chẳng theo, mà cứ khoe khoang luôn miệng.

    Nguồn Gốc:

    Bài Giới Tâm Kinh do các Ðấng Thiêng liêng giáng cơ ban cho chi Minh Tân, một trong Năm chi Minh Ðạo, Hội Thánh đến thỉnh bài kinh nầy về làm kinh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

    Giới Tâm kinh: Giới là răn cấm, Tâm là lòng dạ. Giới Tâm Kinh là bài kinh có nội dung dạy người sửa tánh răn lòng.

    Câu 1-2: Vọng Thượng Ðế chứng lòng thành tín, Chúng sanh đồng bái kỉnh khẩn nguyền.

    GIẢI NGHĨA

    Vọng: Trông ngóng.

    Bái kỉnh: Lạy với lòng kính trọng.

    Khẩn nguyền: Tha thiết mong ước cầu xin.

    Câu 1-2: Trông mong Ðức Chí Tôn chứng lòng thành thật tín ngưỡng. Chúng sanh đồng kính lạy và tha thiết cầu xin.

    Câu 3-4: Nguyền cho trăm họ bình yên, Nhà nhà no ấm khỏi phiền khỏi than.

    GIẢI NGHĨA

    Câu 3-4: Cầu xin cho dân chúng (Bá tánh) được bình yên, mọi nhà đều được no ấm, không còn phiền não, không còn than van.

    Câu 5-6 Nguyền Khổng Thánh bảo toàn Nho giáo, Lấy nghĩa nhân Ðại Ðạo truyền ra.

    GIẢI NGHĨA

    Nghĩa nhân: Nhân là tình thương yêu rộng lớn, Nghĩa là việc làm chánh đáng theo lẽ phải. Nhân là nơi yên ổn của con người, Nghĩa là con đường chánh của con người. Ở thì theo đạo Nhân, làm thì noi theo đường Nghĩa.

    Ðại Ðạo: Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức Ðạo Cao Ðài, chủ trương Nho Tông Chuyển Thế, lấy tinh hoa giáo lý Nho giáo để khuyến dạy nhơn sanh, làm cho đời trở nên thuần lương đạo đức.

    Câu 5-6: Cầu xin Ðức Khổng Thánh bảo toàn Nho giáo. Ðạo Cao Ðài với chủ trương Nho Tông Chuyển Thế, lấy 2 điều căn bản Nhân và Nghĩa của Nho giáo truyền rộng ra.

    Câu 7-8: Tây phương Phật Tổ, Di-Ðà, Nam Hải Phổ Ðà có Phật Quan Âm.

    GIẢI NGHĨA

    Phật Tổ: Ðức Phật Thích Ca là Tổ sư của Phật giáo.

    Di-Ðà: Ðức Phật A-Di-Ðà.

    Nam Hải Phổ Ðà: Núi Phổ Ðà ở biển Nam Hải cõi Thiêng Liêng, là nơi Công Chúa Diệu Thiện đắc đạo thành Phật hiệu là Quan Thế Âm.

    Câu 7-8: Nơi Cực Lạc Thế Giới, có Ðức Phật Thích Ca và Ðức A-Di-Ðà Phật. Nơi Phổ Ðà Sơn biển Nam Hải có Ðức Phật Quan Âm.

    Câu 9-10: Lẽ báo ứng cao thâm huyền diệu, Cho chúng sanh đặng hiểu răn mình.

    GIẢI NGHĨA

    Báo ứng: Ứng hiện ra để báo đáp những điều đã làm thuở trước, đúng theo Luật Nhân quả.

    Cao thâm: Cao sâu.

    Câu 9-10: Lẽ báo ứng của Trời Ðất rất cao sâu huyền diệu, để cho chúng sanh hiểu rõ mà răn mình.

    Câu 11-12: Ðạo Quân đức hóa háo sinh, Rộng quyền máy nhiệm an linh cứu đời.

    GIẢI NGHĨA

    Ðạo Quân: Ðức Thái Thượng Ðạo Quân.

    Ðức hóa: Dùng đức mà cảm hóa lòng người.

    Háo sinh: Ưa thích sự sống.

    Máy nhiệm: Máy Trời mầu nhiệm.

    An linh: An ổn Thiêng Liêng.

    Câu 11-12: Ðức Thái Thượng Ðạo Quân dùng đức cảm hóa nhơn sanh, hạp tánh háo sanh của Thượng Ðế, nắm giữ Máy Trời mầu nhiệm, an ổn Thiêng Liêng, rộng quyền cứu giúp nhơn sanh.

    Câu 13-14: Xin xót thương con người ngây dại, Phép huyền hư truyền dạy thế gian.

    GIẢI NGHĨA

    Huyền hư: Huyền là huyền diệu, Hư là trống không, hư vô.

    Phép Huyền hư: Phương pháp luyện đạo huyền diệu, luyện cho đến chỗ huờn hư thì đắc đạo.

    Câu 13-14: Xin xót thương con người còn khờ dại, xin truyền dạy Phép luyện đạo huyền diệu để luyện cho Chơn thần đến chỗ huờn hư đắc đạo.

    Câu 15-16: Mong nhờ lịnh Ðức Thánh Quan, Ra oai tiêu diệt cho tàn ác ma.

    GIẢI NGHĨA

    Cho tàn: Cho hết sạch. Tàn là hết.

    Ác ma: Ma quỉ ác độc.

    Câu 15-16: Mong nhờ Ðức Quan Thánh Ðế Quân ra oai tiêu diệt cho hết sạch lũ quỉ ma độc ác hại người.

    Câu 17-18: Trường Canh chói rạng lòa Kim Khuyết, Xin ban ơn giải nghiệt cho đời.

    GIẢI NGHĨA

    Trường Canh: Sao Trường Canh là sao Thái Bạch, thường gọi là Thái Bạch Kim Tinh. Ðấng ấy hiện nay là một vị Ðại Tiên Trưởng lãnh nhiệm vụ Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

    Kim Khuyết: Huỳnh Kim Khuyết, là nơi họp Triều đình của Ðức Chí Tôn.

    Giải nghiệt: Giải là cởi bỏ ra, Nghiệt là nghiệp ác. Giải nghiệt là cởi bỏ nghiệp ác.

    Câu 17-18: Sao Thái Bạch chiếu sáng Huỳnh Kim Khuyết, ý nói: Ðức Lý Thái Bạch vào Huỳnh Kim Khuyết chầu Ðức Chí Tôn, xin Ðức Chí Tôn ban ơn cởi bỏ hết các ác nghiệp cho đời.

    Câu 19-20: Tề Thiên Ðại Thánh để lời, Thiện nam, Tín nữ nghe thời phải vưng.

    GIẢI NGHĨA

    Câu 19-20: Tề Thiên Ðại Thánh để lời bảo các tín đồ Nam Nữ, hãy nghe lời dạy bảo và phải vâng theo.

    Câu 21-22: Chớ tự phụ, cũng đừng khi ngạo, Lẽ Trời hằng quả báo chẳng sai.

    GIẢI NGHĨA

    Khi ngạo: Khinh rẻ, ngạo mạn, đồng nghĩa Khinh ngạo.

    Quả báo: Cái kết quả báo đáp lại. Những việc làm trong kiếp trước là Nhân, tạo ra Nghiệp, để báo đáp lại bằng sự hạnh phúc hay đau khổ trong kiếp nầy gọi là Quả. Ðây là Luật Nhân Quả thể hiện sự công bình của Trời Ðất.

    Câu 21-22: Chớ nên tự phụ, cũng đừng khinh rẻ ngược ngạo. Luật Trời hằng sắp đặt việc quả báo chẳng hề sai chạy.

    KHẢO DỊ:
    - Kinh TÐ-TÐ 1936, 1968: khi ngạo.
    - Kinh Lễ, Kinh TÐ-TÐ 1974, 1975: khinh ngạo.

    Câu 23-24: Lời khuyên già trẻ gái trai, Khá tua sửa nết, ăn chay làm lành.

    GIẢI NGHĨA

    Khá: Nên.

    Tua: Phải. Khá tua là phải nên.

    Câu 23-24: Lời khuyên cho tất cả Nam, Nữ, già, trẻ, phải nên sửa đổi tánh nết cho tốt đẹp, phải ăn chay và làm lành.

    Câu 25-26: Ðấng Tạo Hóa hóa sanh muôn vật, Phú cho người tánh rất linh thông.

    GIẢI NGHĨA

    Phú cho: Ban cho.

    Linh: Thiêng Liêng.

    Thông: Hiểu biết rõ.

    Câu 25-26: Ðấng Thượng Ðế sanh ra vạn vật, ban cho con người một cái tánh rất thiêng liêng và hiểu biết rõ.

    Ðó là nhờ điểm Linh quang của Ðức Chí Tôn ban cho, nên con người linh thông hơn vạn vật, đứng vào bực trên chúng sanh, nên gọi là Thượng đẳng chúng sanh.

    Câu 27-28: Ðặt ra có họ có dòng, Vua, Thầy, cha mẹ, vợ chồng, cháu con.

    GIẢI NGHĨA

    Câu 27-28: Ðặt ra cho mỗi người có dòng họ tổ tiên, có Vua, có Thầy, có Cha mẹ, có vợ chồng, có con cháu.

    Câu 29-30: Tình huynh đệ tày non tợ biển, Nghĩa hữu bằng phải kiếng phải tin.

    GIẢI NGHĨA

    Tày: Bằng, sánh bằng.

    Tợ: Giống như.

    Nghĩa: Cách cư xử đúng lẽ phải.

    Hữu bằng: Bè bạn.

    Kiếng: Kính trọng.

    Câu 29-30: Tình thương yêu giữa anh em ruột thịt nặng như núi, sâu như biển. Cái nghĩa giữa bạn bè là phải kính trọng nhau, tin cậy nhau.

    Câu 31-32: Cang tam Thường ngũ phải gìn, Chứa đức làm lành, làm phước, làm doan.

    GIẢI NGHĨA

    Cang tam: Tam cang, dịch là Ba giềng. Tam cang gồm: Quân thần cang, Phụ tử cang, Phu thê cang. Thường ngũ: Ngũ thường, dịch là Năm hằng. Ngũ thường gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

    Làm doan: Làm duyên, là làm những việc thiện để tạo duyên lành, hưởng phước về sau.

    Câu 31-32: Phải gìn giữ Tam cang và Ngũ thường. Muốn chứa đức thì phải làm lành, làm phước, làm duyên.

    Câu 33-34: Gặp người đói rách khốn nàn, Ra tay chẩn cứu cho toàn nghĩa nhân.

    GIẢI NGHĨA

    Chẩn cứu: Chẩn là giúp đỡ bằng cách đem vật thực đến cho. Chẩn cứu là cứu giúp, đem tiền bạc, thực phẩm, thuốc men, quần áo đến phát cho người đang bị hoạn nạn.

    Câu 33-34: Khi gặp người đói rách đang hoạn nạn khổ sở, phải ra tay chẩn cứu, mới trọn vẹn 2 chữ nhân nghĩa.

    Câu 35-36: Mựa chớ ham giọng đờn tiếng quyển, hói dâm phong rù quến nguyệt hoa.

    GIẢI NGHĨA

    Mựa: Chớ, tiếng dùng với ý cản ngăn.

    Tiếng quyển: Tiếng sáo.

    Giọng đờn tiếng quyển: Tiếng đàn tiếng sáo du dương khiến người ta mê theo. Ý nói: Lời nói ngon ngọt của phụ nữ đẹp dụ dỗ vào đường tình ái bất chánh.

    Dâm phong: Thói quen ham mê thú vui xác thịt nam nữ. Phong là thói quen lâu đời.

    Nguyệt hoa: Trăng hoa. Do câu: Nguyệt hạ hoa tiền: Dưới trăng trước hoa, ý nói: việc lén lút tình tự lãng mạn giữa trai gái hẹn hò ngắm trăng xem hoa. Ðó là tình yêu lãng mạn vượt ra ngoài lễ giáo, bị người xưa ngăn cấm.

    Câu 35-36: Chớ có ham mê theo lời ngon ngọt, quyến rũ vào thói ăn chơi dâm đảng, đi vào các cuộc tình ái lãng mạn.

    Câu 37-38: Có ngày hư nát cửa nhà, Xa gần đồn tiếng thúi tha vô cùng.

    GIẢI NGHĨA

    Câu 37-38: Có ngày phải bị hư nhà nát cửa, tiếng xấu đồn vang, xa gần đều biết, thật là thúi tha hổ thẹn vô cùng.

    Câu 39-40: Trường đổ bác cũng đừng léo tới, Phường trăng hoa hát bội khá từ.

    GIẢI NGHĨA

    Trường: Nơi tụ tập nhiều người.

    Ðổ bác: Ðánh bài bạc ăn tiền.

    Trường đổ bác: Sòng bài, nơi tổ chức cờ bạc.

    Léo: Bén mảng tới gần.

    Phường: Ðám, bọn.

    Hát bội: Hát diễn các truyện xưa tích cũ, chỉ việc đờn ca xướng hát. Thời xưa cho rằng, người theo đờn ca xướng hát đều lãng mạn phóng túng, không giữ được nền nếp Nho phong.

    Khá từ: Nên từ bỏ.

    Câu 39-40: Ðừng bén mảng tới những nơi cờ bạc. Nên từ bỏ đám trai gái trăng hoa lãng mạn và bọn đờn ca xướng hát.

    Câu 41-42: Những điều nhơ nhuốc phải chừa, Hỗn hào mắng nhiếc, nói thừa nói thêm.

    GIẢI NGHĨA

    Nhơ nhuốc: Xấu xa nhục nhã.

    Hỗn hào: Có lời nói hay cử chỉ vô lễ, láo xược, khi dể người trên.

    Câu 41-42: Phải chừa những điều xấu xa nhục nhã, không được hỗn hào mắng nhiếc người trên, không được nói thêm nói bớt cho sai sự thật.

    Câu 43-44: Nơi Ðịa ngục gông kềm sẵn đủ, Ðể răn loài dâm phụ gian phu.

    GIẢI NGHĨA

    Dâm phụ: Người đàn bà dâm đảng lấy chồng người.

    Gian phu: Người đàn ông tà dâm lấy vợ người.

    Câu 43-44: Nơi Ðịa ngục, có sẵn hai hình cụ là: Gông và Kềm, để trừng trị những kẻ dâm phụ, gian phu.

    Câu 45-46: Ai ai bền chí mà tu, Phước đem đổi tội cho phu dễ gì ?

    GIẢI NGHĨA

    Phước: Phước đức.

    Phu: Ðủ, thỏa.

    Cho phu: Cho đủ.

    Câu 45-46: Mọi người nên bền chí tu hành. Ðem phước đức mà đổi lấy tội tình cho vừa đủ cũng không phải là chuyện dễ dàng gì!

    Câu 47-48: Dễ gì lộn kiếp đặng làm người, May đặng làm người chớ dể duôi.