Cao Đài Tự Điển - Vần Q
ID018179 - dictionary : Cao Đài Tự Điển - Vần Q
Tác Giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (1940-2005) Bút hiệu Đức Nguyên

  • QUA

    QUA: 瓜 Dưa, trái dưa, như dưa hấu, dưa leo.

    Td: Qua điền lý hạ, Qua phân.

     

  • Qua điền lý hạ

    瓜田李下

    Qua: Dưa, trái dưa, như dưa hấu, dưa leo. Điền: ruộng. Lý: cây lý, cây mận. Hạ: dưới. Qua điền: ruộng dưa. Lý hạ: dưới cây lý.

    Thành ngữ trên nói đầy đủ là: Qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan. Nghĩa là: Nơi ruộng dưa thì không nên xỏ giày, dưới cây lý thì không nên sửa nón.

    Bởi vì với hai hành động trên, người ta có thể nghi ngờ mình muốn hái trộm dưa nên đi qua ruộng dưa mà làm bộ cúi xuống xỏ giày; hay muốn hái trộm trái lý (mận) mà đứng dưới cây mận làm bộ sửa nón trên đầu.

    Sách Nho trong phần Chánh Kỷ, khuyên người quân tử phải cẩn thận về hành vi của mình, không nên để người ta nghi ngờ mình có ý làm điều xấu:

    Quân tử phòng vị nhiên, bất xử hàm nghi gian,

    Qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan,

    Thúc tẩu bất thân thọ, trưởng ấu bất tỷ kiên.

    Nghĩa là:

    Người quân tử nên đề phòng khi chưa xảy ra, không ở trong chỗ hiềm nghi. Nơi ruộng dưa không xỏ giày, dưới cây lý không sửa nón, em chồng (em trai) và chị dâu không chung đụng, già trẻ không sánh vai.

    Ý nói: Người quân tử ở trong những hoàn cảnh khó khăn tế nhị thì phải cẩn thận giữ mình, đừng để sanh ra điều nghi ngờ không tốt.

     

  • Qua phân

    瓜分

    A: To divide.

    P: Diviser.

    Qua: Dưa, trái dưa, như dưa hấu, dưa leo. Phân: chia ra.

    Qua phân, nghĩa đen là xẻ trái dưa ra nhiều mảnh, ý nói: Chia cắt đất đai làm nhiều phần như xẻ trái dưa trái dưa.

     

  • QUÁ

    QUÁ: 過 - đã qua, trải qua, - vượt khỏi mức bình thường, - lỗi lầm.

    Td: Quá cố, Quá độ, Quá công.

     

  • Quá bất yểm công

    過不掩功

    Quá: lỗi lầm. Bất: không. Yểm: che đậy.

    Quá bất yểm công là cái lỗi không che lấp được cái công, ý nói: Công nhiều lỗi ít.

     

  • Quá cố

    過故

    A: Deceased.

    P: Décédé.

    Quá: đã qua, trải qua. Cố: chết.

    Quá cố là đã chết.

    Người quá cố là người đã chết.

    TĐ ĐPHP: Dường như người quá cố nhắc nhở ta điều gì.

    TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.

     

  • Quá công

    過功

    A: Fault and merit.

    P: Faute et mérite.

    Quá: lỗi lầm. Công: nỗi vất vả làm việc, công cán, công quả.

    Quá công là tội lỗi và công quả.

    Tội lỗi và công quả là hai thứ mà linh hồn người chết mang theo khi thoát xác trở về cõi thiêng liêng, để cây cân công bình thiêng liêng định phân thăng hay đọa.

    Nếu công nhiều tội ít thì linh hồn được siêu thăng.

    Nếu công và tội bằng nhau thì coi như trắng tay, một kiếp sanh nơi cõi trần không làm được điều gì hữu ích cho linh hồn, nên phải tái kiếp lập công nữa.

    Nếu công ít mà tội nhiều thì bị đọa, phải đầu kiếp xuống trần mà đền tội theo Luật Nhân quả.

    KSH:

    Quá công xem xét đền bồi,

    Lành siêu dữ đọa thêm nhồi tội căn.

    KSH: Kinh Sám Hối.

     

  • Quá độ

    Có hai trường hợp:

    * Trường hợp 1: Quá độ

    過度

    A: Exaggerated.

    P: Exagéré.

    Quá: vượt khỏi mức bình thường. Độ: chừng mực.

    Quá độ là vượt qua mức bình thường, quá chừng mực.

    Quá độ đồng nghĩa Quá đáng.

    * Trường hợp 2: Quá độ

    過渡

    A: Transition.

    P: Transition.

    Quá: đã qua, trải qua. Độ: đưa qua sông.

    Quá độ nghĩa đen là thuyền đưa qua sông. Ý nói: Giữa chừng của sự thay đổi từ trạng thái cũ chuyển sang trạng thái mới, như lúc thuyền qua sông, rời bến cũ đến bến mới.

    Thời kỳ quá độ là khoảng giữa, từ thời kỳ cũ sang thời kỳ mới, tức là buổi giao thời giữa thời kỳ cũ và thời kỳ mới.

     

  • Quá khích

    Có hai trường hợp:

    * Trường hợp 1: Quá khích

    過隙

    Quá: đã qua, trải qua. Khích: khe hở trên vách.

    Quá khích là đi qua khe hở, chỉ thời gian rất nhanh.

    Bạch câu quá khích: ngựa trắng đi qua khe cửa, ý nói một khoảng thời gian rất ngắn, hay thời gian đi qua rất mau.

    * Trường hợp 2: Quá khích

    過激

    A: Extremist.

    P: Extrémiste.

    Quá: vượt khỏi mức bình thường. Khích: cũng đọc là Kích: nước vọt lên.

    Quá khích là mạnh mẽ và quyết liệt quá mức thường, nghiêng hẳn về phía cực đoan.

     

  • Quá khứ vị lai

    過去未來

    A: Past and future.

    P: Le passé et le futur.

    Quá: đã qua, trải qua. Khứ: đi. Vị: chưa. Lai: tới.

    Quá khứ là đã đi qua, chỉ thời gian đã qua.

    Vị lai là chưa đến, chỉ thời gian sắp tới.

     

  • Quá kiều chiết kiều

    過橋折橋

    Quá: đã qua, trải qua. Kiều: cây cầu. Chiết: bẻ gãy.

    Quá kiều chiết kiều là qua cầu rồi phá gãy cầu.

    Ý nói: Khi mình đã tiến lên được rồi thì sanh lòng ích kỷ, không muốn cho kẻ khác tiến lên như mình.

    Thành ngữ nầy đồng nghĩa: Qua cầu rút ván, Qua sông phá thuyền.

     

  • Quá nhi bất cải, thị vị quá hỹ

    過而不改是謂過矣

    Quá: lỗi lầm. Nhi: mà. Cải: sửa. Bất cải: không sửa đổi. Thị: ấy là. Vị: gọi là. Hỹ: vậy.

    Quá nhi bất cải: lỗi mà không sửa.

    Thị vị quá hỹ: ấy gọi là lỗi vậy.

    Cả câu hán văn trên có nghĩa là: Lỗi mà không sửa, ấy gọi là lỗi vậy.

    Quá nhi năng cải thiện mạc đại nhiên: Có lỗi mà mà biết sửa thì tốt hơn cả.

     

  • Quá trình

    過程

    A: The process.

    P: Le chemin parcouru.

    Quá: đã qua, trải qua. Trình: đường đi.

    Quá trình là con đường đã trải qua. Ý nói: bước diễn tiến của sự việc trong một khoảng thời gian nào đó.

     

  • Quá vãng

    過往

    A: To pass away.

    P: Trépasser.

    Quá: đã qua, trải qua. Vãng: đi qua.

    Quá vãng là đã đi qua cõi đời. Ý nói: chết.

    ĐLMD: Hạng truy phong công nghiệp, những người đã quá vãng mà có đủ bằng cớ đặng công chúng hoan nghinh.

    ÐLMD: Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938).

     

  • QUẢ

    1. QUẢ: 果 Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra.

    Td: Quả báo, Quả căn, Quả cảm.

    2. QUẢ: 寡 Ít, goá chồng.

    Td: Quả dục, Quả phụ.

     

  • Quả báo

    果報

    A: Retribution.

    P: Rétribution.

    Quả: Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra. Báo: đáp lại.

    Quả báo là cái kết quả báo đáp lại những việc làm thiện hay ác của mình lúc trước.

    Theo Luật Nhân Quả, hễ người làm lành tức là gieo nhân lành, ắt hưởng được quả lành báo đáp lại bằng sự an vui, hạnh phúc, thạnh vượng; còn người làm ác tức là gieo nhân ác, ắt phải chịu cái quả ác báo đáp lại bằng sự khổ não, tai ương.

    Luật Nhân Quả là một sự thực hiển nhiên, không ai có thể chối cãi được, tượng trưng cho sự công bình tuyệt đối của Thượng Đế.

    Câu thường nói về Luật Nhân Quả: Chưởng qua đắc qua, chưởng đậu đắc đậu. Nghĩa là: Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Đó là một chơn lý.

    Nếu quả báo xảy ra trong một thời gian ngắn, mọi người thấy rõ trước mắt thì gọi là: Quả báo nhãn tiền hay Tốc báo.

    Nếu quả báo xảy ra trong một kiếp thì gọi là Hiện báo.

    Nếu quả báo xảy ra trong kiếp sau thì gọi là Sanh báo.

    Nếu quả báo xảy ra trong nhiều kiếp sau gọi là Hậu báo.

     

  • Quả cảm

    果敢

    A: Audacious.

    P: Audacieux.

    Quả: Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra. Cảm: không sợ gì hết.

    Quả cảm là quyết chắc không sợ gì hết, quyết chí tiến hành công việc không sợ khó khăn.

     

  • Quả Càn Khôn

    果乾坤

    A: The heavenly globe.

    P: Le globe céleste.

    Quả: Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra. Càn Khôn: Trời Đất, CKVT.

    Quả Càn Khôn là trái Càn Khôn tượng trưng CKVT của Đức Chí Tôn, được thờ nơi BQĐ. (Xem chữ: Càn Khôn, vần C)

    CKVT: Càn Khôn Vũ Trụ.

    BQÐ: Bát Quái Ðài.

     

  • Quả căn

    果根

    A: The consequences of the actions in the previous life.

    P: Les conséquences des actions dans l'existence antérieure.

    Quả: Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra. Căn: rễ cây, gốc rễ.

    Quả căn là cái kết quả tốt hay xấu của kiếp sống hiện tại là do cái gốc rễ từ kiếp trước. Cái gốc rễ ấy chính là những việc làm thiện hay ác trong kiếp sống trước.

    Nếu kiếp hiện tại gặp nhiều hoạn nạn tai ương là do cái gốc rễ không lành (xấu), tức là cái căn xưa không lành.

    PMCK: Vô siêu đọa quả căn hữu pháp.

    PMCK: Phật Mẫu Chơn Kinh.

     

  • Quả dục

    寡慾

    A: To have few desires.

    P: Désirer peu.

    Quả: Ít, goá chồng. Dục: ham muốn.

    Quả dục là ít ham muốn, tức là kềm giữ lòng ham muốn không cho buông lung.

    Sách Minh Tâm Bửu Giám:

    Cảnh Hành Lục vân:

    Quả ngôn tắc tỉnh báng, quả dục tắc bảo thân,

    Bảo thân giả quả dục, bảo thân giả tị danh,

    Vô dục dị, vô danh nan,

    Vụ danh giả sát kỷ thân, đa tài giả sát kỳ hậu.

    Nghĩa là:

    Sách Cảnh Hành Lục rằng:

    Ít nói thì bớt kẻ chê bai, ít muốn thì giữ được mình,

    Giữ mình ấy là ít lòng dục, giữ mình ấy là lánh tiếng,

    Không lòng dục thì dễ, không danh tiếng thì khó,

    Ham danh ấy là tự giết mình, nhiều của cải ấy là giết chết đời sau (con cháu).

     

  • Quả duyên

    果緣

    A: The divine position.

    P: La position divine.

    Quả: Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra. Duyên: sức bổ trợ cho cái Nhân thành Quả.

    Quả duyên là cái kết quả do sự tu hành tạo ra. Đó là ngôi vị nơi cõi thiêng liêng.

    KĐLC: Chơn linh an ngự cho vừa quả duyên.

    KÐLC: Kinh đưa linh cửu.

     

  • Quả kiến thiểu văn

    寡見少聞

    Quả: Ít, goá chồng. Kiến: thấy. Thiểu: ít. Văn: nghe.

    Kiến văn là những điều nghe thấy, tức là sự hiểu biết.

    Quả kiến thiểu văn là ít thấy ít nghe, chỉ người dốt nát, kiến thức ít ỏi.

     

  • Quả kiếp

    果劫

    A: The results of the previous life.

    P: Les résultats de la vie antérieure.

    Quả: Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra. Kiếp: một kiếp sống.

    Quả kiếp: kiếp sống hiện tại là cái kết quả của kiếp sống trước, tức là những việc làm thiện ác trong kiếp sống trước báo đáp lại trong kiếp sống nầy.

    Quả kiếp nhân duyên: Cái nhân duyên kiếp trước đưa đến quả báo hiện tại.

    KTCMĐQL: Dầu căn xưa quả kiếp dường bao.

    KTCMÐQL: Kinh Tụng Cha Mẹ Ðã Qui Liễu.

     

  • Quả nhân

    Có hai trường hợp:

    * Trường hợp 1: Quả nhân

    果因

    A: Cause and effect.

    P: Cause et effet.

    Quả: Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra. Nhân: nguyên nhân.

    Quả nhân tức là Nhân quả, có quả tức có nhân, có nhân thì phải có quả, nhân nào quả nấy; không nhân thì không quả, không quả thì không nhân. (Xem: Nhân quả, vần Nh)

    TNHT: Dìu độ quần sanh diệt quả nhân.

    * Trường hợp 2: Quả nhân

    寡人

    Quả: Ít, goá chồng. Nhân: người.

    · Quả nhân là đàn bà góa chồng, đồng nghĩa Quả nữ.

    · Quả nhân là người ít đức, tiếng vua xưng tự khiêm mình.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quả nhiên

    果然

    A: Evidently.

    P: Evidemment.

    Quả: Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra. Nhiên: như thế.

    Quả nhiên là thật vậy, đúng như thế.

     

  • Quả phẩm

    果品

    A: The fruits.

    P: Les fruits.

    Quả: Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra. Phẩm: các thứ, các loại.

    Quả phẩm là các thứ trái cây.

     

  • Quả phụ

    寡婦

    A: The widow.

    P: La veuve.

    Quả: Ít, goá chồng. Phụ: người đàn bà.

    Quả phụ là người đàn bà có chồng chết (goá chồng).

    Thường nói: Cô nhi quả phụ: Trẻ mồ côi và đàn bà góa.

     

  • Quả phúc

    果福

    A: The divine position.

    P: La position divine.

    Quả: Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra. Phúc: phước đức.

    Quả phúc là kết quả của việc làm phước đức. Đó là ngôi vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng.

    KTTg: Ngôi liên đài quả phúc Dà Lam.

    KTTg: Kinh Tiểu Tường.

     

  • Quả tang

    果贓

    A: Evident proof.

    P: Preuve évidente.

    Quả: Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra. Tang: chứng cớ.

    Quả tang là bị bắt đang lúc phạm pháp.

     

  • Quả vị

    果位

    A: The divine position.

    P: La position divine.

    Quả: Trái cây, kết quả, hẳn, chắc, thật ra. Vị: ngôi vị, địa vị.

    Quả vị là ngôi vị thành tựu hay kết quả thành tựu được của người tu hành. Đó là ngôi vị Thánh, Tiên, Phật nơi cõi thiêng liêng.

     

  • QUÁCH

    QUÁCH:

    ■ Quách, thuở xưa có nghĩa là: cái áo quan bọc bên ngoài cái quan tài. Thường nói: Trong quan ngoài quách.

    Đây là trường hợp nhà giàu hay nhà quan quyền, bọc xác người chết hai lớp: bên trong là quan tài, bên ngoài là quách. Ngày nay, người ta không còn dùng cách nầy nữa.

    ■ Nghĩa thường dùng ngày nay là: Quách là cái áo quan nhỏ dùng để liệm xác con nít chết, hay cái áo quan nhỏ dùng để đựng cốt người chết khi lấy cốt cải táng lại hay đem thiêu.

     

  • QUÁI

    QUÁI: 怪 Lạ lùng kỳ dị, yêu quái, rất lắm.

    Td: Quái gở, Quái khí, Quái kiệt.

     

  • Quái đản

    怪誕

    A: Fantastic.

    P: Fantastique.

    Quái: Lạ lùng kỳ dị, yêu quái, rất lắm. Đản: bịa chuyện ra, to lớn.

    Quái đản là kỳ lạ, không thường thấy.

     

  • Quái gở

    A: Monstruous.

    P: Monstrueux.

    Quái: Lạ lùng kỳ dị, yêu quái, rất lắm. Gở: xấu, điềm chẳng lành.

    Quái gở là kỳ quặc lạ lùng, không tốt.

     

  • Quái khí

    怪氣

    A: Foul air.

    P: Air vicié.

    Quái: Lạ lùng kỳ dị, yêu quái, rất lắm. Khí: chất hơi.

    Quái khí là khí độc, khí ô trược.

    Quái khí đồng nghĩa: Tà khí, Trược khí.

    KĐ4C: Trừ quái khí roi thần chớp nhoáng.

    KÐ4C: Kinh Ðệ Tứ cửu.

     

  • Quái kiệt

    怪傑

    A: Extraordinary man.

    P: Homme extraordinaire.

    Quái: Lạ lùng kỳ dị, yêu quái, rất lắm. Kiệt: tài giỏi hơn người.

    Quái kiệt là người tài trí lạ lùng.

     

  • Quái thai

    怪胎

    A: Monster.

    P: Monstre.

    Quái: Lạ lùng kỳ dị, yêu quái, rất lắm. Thai: cái thai trong bụng mẹ.

    Quái thai là cái thai kỳ lạ, thí dụ như có hai đầu, hay thai không giống hình người.

    Quái thai còn chỉ người quái gở, sự vật kỳ quặc.

     

  • QUAN

    1. QUAN: 官 Chức quan, của công.

    Td: Quan lại, Quan liêu.

    2. QUAN: 關 Cửa ải, then cửa, đóng, quan hệ, họ.

    Td: Quan ải, Quan hệ, Quan tâm.

    3. QUAN: 觀 Nhìn xem, hình tượng đã xem, ý thức.

    Td: Quan điểm, Quan kiến.

    4. QUAN: 冠 Cái mũ (nón), lễ đội mũ.

    Td: Quan Hôn Tang Tế.

    5. QUAN: 棺 Cái hòm để liệm xác chết.

    Td: Quan tài.

    6. QUAN: 鰥 Người đàn ông góa vợ.

    Td: Quan phu, Quan quả cô độc.

     

  • Quan ải

    關隘

    A: Frontier post.

    P: Poste frontière.

    Quan: Cửa ải, then cửa, đóng, quan hệ, họ. Ải: nơi hiểm trở.

    Quan ải là nơi hiểm yếu tại biên giới, có đường thông vào nội địa.

    TNHT: Ấy là một cái quan ải, các chơn hồn khi qui Thiên phải đi ngang qua đó.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quan Âm Như Lai

    觀音如來

    Quan: Nhìn xem, hình tượng đã xem, ý thức. Âm: tiếng nói, âm thanh. Như Lai: Phật.

    Quan Âm Như Lai, cũng gọi là Quan Thế Âm Bồ Tát, là vị Nữ Phật, nhưng mang danh hiệu Bồ Tát, nghe biết được tiếng kêu cứu của nhơn sanh nơi cõi trần để hiện thân đến cứu giúp.

    Trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Ngài đảm nhiệm chức vụ Nhị Trấn Oai Nghiêm, thay mặt Đức Phật Thích Ca cầm quyền Phật giáo. (Xem chi tiết: Quan Thế Âm Bồ Tát)

     

  • Quan Âm Các

    觀音閣

    Quan Âm: Quan Âm Bồ Tát. Các: cái gác.

    Quan Âm Các là cái gác để thờ Đức Quan Âm Bồ Tát.

     

  • Quan điểm

    觀點

    A: The point of view.

    P: Le point de vue.

    Quan: Nhìn xem, hình tượng đã xem, ý thức. Điểm: xét nét, chỗ đứng.

    Quan điểm là chỗ người ta đứng để quan sát sự vật, giải quyết các vấn đề theo cái nhìn từ vị trí của mình.

    Quan điểm của nhà tu hành thường khác với quan điểm của người đời, bởi vì một đằng thì phế đời, một đằng thì vì đời.

     

  • Quan hệ

    關係

    Quan: Cửa ải, then cửa, đóng, quan hệ, họ. Hệ: liên hệ, buộc vào nhau.

    · Quan hệ là có sự ràng buộc chặt chẽ với nhau.

    · Quan hệ là quan trọng.

    TNHT: Mặc dầu lời thỉnh nguyện có quan hệ cách mấy đi nữa cũng không đặng.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quan Hôn Tang Tế

    冠婚喪祭

    Quan: Cái mũ (nón), lễ đội mũ. Lễ đội mũ cho con trai khi lớn lên vừa tròn 20 tuổi, gọi là Lễ Gia Quan, theo cổ tục của người Tàu, và người Việt Nam ta thời xưa cũng bắt chước theo, ngày nay đã bỏ.

    Do đó, chữ Quan trong trường hợp nầy để chỉ phép tắc cư xử giữa những người trong họ và trong xã hội.

    Hôn: việc hôn nhân, tức là việc cưới vợ cho con trai hay việc gả chồng cho con gái khi đến tuổi trưởng thành.

    Tang: việc để tang, cúng tế và chôn cất người chết.

    Tế: việc tế lễ, tổ chức cúng tế Trời Đất và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi Đình, Miếu, Chùa, Thất.

    CG PCT: Quan, Hôn, Tang, Tế là điều cần nhứt của kiếp sống đời người.

    CG PCT: Chú Giải Pháp Chánh Truyền.

     

  • Quan kiến

    觀見

    A: To observe.

    P: Observer.

    Quan: Nhìn xem, hình tượng đã xem, ý thức. Kiến: thấy.

    Quan kiến là quan sát nhìn thấy.

    TNHT: Em an dạ, từ đây đã quan kiến sự kết cuộc của Chí Tôn đã định trước. (Em: Bát Nương nói với Đức Hộ Pháp)

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quan lại

    官吏

    A: Mandarins.

    P: Mandarins.

    Quan: Chức quan, của công. Lại: người làm việc công, chức quan nhỏ ở văn phòng.

    Quan lại là chỉ chung những người có chức vụ trong các cơ quan công quyền.

    KSH: Tớ phản thầy, quan lại bất trung.

    KSH: Kinh Sám Hối.

     

  • Quan liêu

    官僚

    A: Bureaucratic, Authoritative attitude.

    P: Bureaucratique, L'attitude autoritaire.

    Quan: Chức quan, của công. Liêu: bạn bè cùng làm quan với nhau.

    Quan liêu thường được dùng theo nghĩa: Có thái độ hống hách, kênh kiệu đối với dân chúng, cho rằng ta đây là người quan trọng mà dân chúng phải cầu cạnh hay xin xỏ.

     

  • Quan niệm

    觀念

    A: Conception.

    P: Conception.

    Quan: Nhìn xem, hình tượng đã xem, ý thức. Niệm: nghĩ nhớ.

    Quan niệm là nhận thức của mình về một vấn đề hay về một hệ thống gồm nhiều ý tưởng liên quan đến một vấn đề.

     

  • Quan pháp vô thân

    官法無親

    Quan: Chức quan, của công. Pháp: pháp luật. Thân: thân thích, gần gũi.

    Quan pháp là pháp luật của nhà nước đặt ra mà các quan có nhiệm vụ thi hành.

    Quan pháp vô thân là pháp luật của nhà nước không thân thiết với ai cả, cứ giữ mực công bình mà làm việc, không thiên vị những người thân yêu của mình như cha mẹ hay vợ con.

    Thành ngữ trên còn nói: Quan pháp bất vị thân.

     

  • Quan phu

     (Xem: Quan quả cô độc)

     

  • Quan Phương Bá

    Quan Phương Bá là người thuộc thời nhà Châu bên Tàu, có chí thương đời trọng Đạo, lại đầy lòng nghĩa hiệp, lấy sự hiền đức dạy dỗ dân chúng, lấy nhân nghĩa đối đãi cùng mọi người. Ông thường mang bầu quảy gậy đi khắp đó đây, tận các nơi thôn quê hẻo lánh để thi ân bố đức và giáo hóa dân chúng; không giống như các quan lại địa phương, dùng quyền uy thế lực để hiếp bức dân chúng và hà lạm của dân.

    Đàn cơ tại Phạm Nghiệp ngày 28-12-Ất Hợi (dl 22-1-1936), Phò loan: Đức Hộ Pháp - Tiếp Thế, Ngài Phối Thánh Phạm Văn Màng giáng cơ khuyên các bạn trong Phạm Môn, có câu:

    "Em chỉ để lời căn dặn mấy anh nhớ lời Sư phụ dặn rằng: Dầu chi chi cũng làm Quan Phương Bá cho nhà Châu mà thôi, chớ đừng làm quan nha cho thế sự đa nghe."

    Làm Quan Phương Bá nhà Châu thì không cần chức tước, cứ đi hành thiện khắp nơi tự do thoải mái; còn làm quan nha thì có áo mão, phẩm tước, nên bị buộc ràng vào chốn danh lợi quyền, với lòng tham dục sẵn có của mỗi người nên dễ gây ra tội tình oan nghiệt.

    Trong Đạo Luật năm Mậu Dần, phần Phổ Tế, qui định về Chức sắc Phổ Tế:

    "Chư vị Chức sắc lãnh phần Phổ Tế phải kể mình như các vị Quan Phương Bá nhà Châu buổi nọ, nghĩa là mảnh thân gánh nặng nghĩa vụ nơi vai thì phải châu lưu cùng khắp trong chốn thôn quê sằn dã, vào tận nơi nào có lấp loáng bóng người đặng đem chơn lý Đạo mầu thức tỉnh cho thế gian hồi tâm giác ngộ, kẻo một ngày trễ là một ngày hại cho nhơn sanh chưa biết Đạo."

     

  • Quan quả cô độc

    鰥寡孤獨

    A: Widower, widow, orphan and heirless.

    P: Veuf, veuve, orphelin et sans héritier.

    Quan: Người đàn ông góa vợ. Quả: người phụ nữ góa chồng. Cô: con mồ côi. Độc: người già mà không có con truyền kế.

    Người đàn ông góa vợ gọi là Quan phu 鰥夫

    Người đàn bà góa chồng gọi là Quả phụ 寡婦

    Quan, quả, cô, độc là bốn hạng người kém may mắn nhứt trong xã hội, cần được các tổ chức từ thiện của nhà nước hay của tôn giáo quan tâm giúp đỡ về mặt vật chất và an ủi về phương diện tinh thần.

     

  • Quan quách

    棺槨

    A: The exterior and interior coffin.

    P: Le cercueil extérieur et intérieur.

    Quan: Cái hòm để liệm xác chết. Quách: cái hòm lớn bọc bên ngoài quan tài.

    Quan quách là cái hòm thuở xưa có hai lớp: trong quan ngoài quách để liệm xác chết của những người mà gia đình giàu có, vì cái quan quách rất mắc tiền so với cái áo quan thường.

    Ngày nay, người ta chỉ dùng một lớp áo quan mà thôi, và danh từ Quan quách cũng có nghĩa đổi khác một chút:

    ■ Quan là cái áo quan để liệm xác người chết.

    ■ Quách là cái áo quan nhỏ để liệm xác chết của trẻ em, hoặc để lấy cốt người chết đã lâu đem cải táng chỗ khác.

     

  • Quan sự

    官事

    A: The lawsuit.

    P: Le procès civil.

    Quan: Chức quan, của công. Sự: việc.

    Quan sự là việc thưa kiện nơi cửa quan.

    KCK: Quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu,....

     

  • Quan tài

    棺材

    A: The coffin with a dead body in it.

    P: Le cercueil renfermant le corps du mort.

    Quan: Cái hòm để liệm xác chết. Tài: gỗ để làm đồ vật.

    Quan tài là cái hòm trong đó có liệm xác người chết.

    Cái quan tài khi được đưa đi chôn thì gọi là Linh cữu.

     

  • Quan tâm

    關心

    A: To concern oneself with.

    P: S'intéresser à.

    Quan: Cửa ải, then cửa, đóng, quan hệ, họ. Tâm: lòng dạ.

    Quan tâm là chú ý đến, để tâm đến.

    TNHT: Ngày giáng sanh của Chúa Cứu Thế là việc đã có lời sấm tiên tri rồi mà các con không chịu quan tâm đến.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quan Thánh Đế Quân

    關聖帝君

    Quan Thánh: vị Thánh họ Quan.

    Đức Quan Thánh Đế Quân, hay gọi đầy đủ là: Đức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân, là Đệ Tam Trấn Oai Nghiêm, đại diện Đức Khổng Tử, cầm quyền Nho giáo trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

    Trên tấm diềm trước Bát Quái Đài Tòa Thánh, tượng của Đức QuanThánh Đế Quân với tư thế đang ngồi xem sách Xuân Thu, ở bên dưới tượng của Đức Khổng Tử, gần bìa phía trái thuộc bên Nam phái.

    Trên Thánh Tượng Ngũ Chi thờ tại tư gia, hình Đức Quan Thánh Đế Quân ở về phía trái của Thiên Nhãn, dưới hình Đức Khổng Tử. Ngài mặt đỏ, râu đen năm chòm, đầu đội mão có ngù đỏ, tay mặt vuốt râu, tay trái cầm Kinh Xuân Thu.

    Ngài có nhiều danh hiệu, xin kể ra sau đây các danh hiệu thường gặp: Quan Công, Quan Thánh, Quan Đế, Nhân Đức Thánh Quân, Phục Ma Đại Đế, Thần Oai Viễn Trấn, Phật Già Lam, Cái Thiên Cổ Phật,....

    Ngài giáng trần nơi nước Trung Hoa vào cuối thời nhà Hán, họ Quan, tên Võ (hay Vũ), tự là Thọ Trường, sau đổi lại là Vân Trường, người đất Giải Lương, tỉnh Hà Đông (có sách chép Ngài sinh tại Bồ Châu).

    Theo Trung quốc Sử lược, Ngài bị giết chết năm 219 sau Tây lịch, và theo truyện Tam Quốc Chí, Ngài bị Tôn Quyền xử trảm, năm đó là năm Kiến An thứ 24, hưởng được 58 tuổi. Do đó, ta có thể suy ngược ra năm sanh của Đức Quan Thánh là: 219 - 57 = 162 sau Tây lịch.

    Vậy, Đức Quan Thánh sanh năm 162 và mất năm 219 sau Tây lịch, hưởng thọ 58 tuổi.

    Theo sách Minh Thánh Kinh, thân phụ của Quan Võ là Quan Nghị, tự là Đạo Viễn, ông nội là Quan Thẩm tự là Vân Chi, và ông cố là Quan Long Phùng.

    Theo truyện Tam Quốc Chí, Quan Võ đi đến Trác Quận, thì gặp Lưu Bị và Trương Phi. Lưu Bị nhìn Quan Võ thấy Quan Võ mình cao 9 thước, mặt đỏ như thoa son, mắt phượng mày ngài, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm, liền mời nói chuyện để làm quen.

    Quan Võ tự giới thiệu: Tôi họ Quan, tên Võ, tự là Vân Trường, người đất Giải Lương, tỉnh Hà Đông. Nhân vì vùng tôi có một tên thổ hào ỷ thế hiếp đáp dân lành, tôi nổi giận giết nó, rồi bỏ đi lánh nạn. Tôi phiêu bạt giang hồ đã hơn 5 năm, nay nghe có giặc Khăn Vàng (Huỳnh Cân) nổi lên quấy nhiễu, nên muốn đầu quân trừ giặc, cứu an bá tánh.

    Lưu Bị và Trương Phi cũng đem chí nguyện của mình tỏ bày, thì ba người rất hợp chí hướng, đồng kéo nhau về nhà Trương Phi gần đó. Trương Phi nói:

    - Muốn làm nên việc lớn, cốt phải hiệp sức đồng tâm. Sau nhà tôi có một Vườn Đào đang tiết nở hoa rất nhiều, ngày mai chúng ta đến đó tế cáo Trời Đất, kết nghĩa làm anh em (Đào viên kết nghĩa).

    Lưu Bị (Lưu Huyền Đức) và Quan Võ (Quan Vân Trường) đều cho lời nói của Trương Phi (Trương Dực Đức) là phải. Ngày hôm sau, Trương Phi sai gia nhân mổ trâu đen, ngựa trắng, bày đủ lễ nơi Đào Viên, ba người đứng trước hương án, vái mỗi người hai vái, rồi cùng nhau thề rằng:

    "Ba chúng tôi là Lưu Bị, Quan Võ, Trương Phi, tuy khác họ, nhưng kết làm anh em, quyết đồng tâm hiệp lực cứu khổn phò nguy, trên báo đáp quốc gia, dưới giúp yên bá tánh. Chúng tôi không mong được sanh cùng năm cùng tháng cùng ngày, chỉ nguyện chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Hoàng Thiên Hậu Thổ chứng giám lời thề nầy, ai bội nghĩa có Trời Đất tru diệt."

    Thề xong, ba người so tuổi nhau, Lưu Bị lớn tuổi nhứt nên làm anh cả, Vân Trường làm thứ và Trương Phi làm em út.

    Trương Phi sai gia nhân bắt trâu dê trong chuồng làm thịt đãi tiệc lớn tại Vườn Đào, tập trung tất cả các tráng sĩ trong vùng đến ăn uống. Các tráng sĩ tề tựu có tới 300 người, vui say một bữa no nê. Hôm sau, mọi người chia nhau đi thu thập khí giới. Mọi việc tạm yên, chỉ hiềm còn thiếu ngựa trận để cỡi.

    Trong lúc lo tính, bỗng có người chạy vào báo: Có hai người khách thương cùng đoàn tùy tùng dẫn theo bầy ngựa khá đông đang đi về hướng trang trại nầy.

    Lưu Bị nói: Đây là Trời giúp ta.

    Ba anh em vội ra khỏi trại. Hai vị khách thương nầy chính là thương gia lớn ở đất Trung Sơn, một người tên là Trương Kế Bình, một người tên là Tô Song, hàng năm thường lên mạn Bắc mua giống ngựa khỏe đem về bán ở Trường An. Nay vì miền nầy có giặc, nên không thể đem ngựa đi được.

    Lưu Bị hối dọn tiệc đãi đoàn khách thương, rồi đem ý muốn chống giặc cứu dân của mình ra bày tỏ. Hai vị khách thương vui lòng hiến cho 50 con ngựa khỏe, lại tặng thêm 500 lượng vàng bạc, và 1000 cân thép tốt để rèn binh khí và làm giáp trụ. Khách cáo từ. Lưu Bị tạ ơn, và tiễn chân khách đến mấy dặm đường mới trở về.

    Sau đó, Lưu Bị cậy thợ rèn giỏi chế tạo một đôi Song Cổ kiếm; Quan Võ thì một cây đại đao Thanh Long Yển Nguyệt, còn gọi là Lãnh Diệm Cứ nặng 82 cân (Thanh Long là Rồng xanh, Yển nguyệt là trăng khuyết nửa vành), Trương Phi rèn một cây Xà Mâu gọi là Bát Điểm Cương Mâu.

    Ai nấy đều trang bị cương giáp, rồi kéo hơn 300 quân dũng sĩ đến ra mắt Thái Thú Lưu Yên. Lưu Yên hỏi danh tánh, ba anh em đều xưng rõ tên họ, riêng Lưu Bị còn nói cho Lưu Yên biết rằng mình là tông phái Hoàng gia. Lưu Yên mừng rỡ, nhận Lưu Bị tức là Lưu Huyền Đức làm cháu.

    Vào thành được vài hôm thì có tin quân thám thính về báo: Tướng giặc Khăn Vàng là Trình Viễn Chí thống lãnh 5 vạn quân kéo đến quấy nhiễu Trác Quận.

    Lưu Yên liền sai Châu Tỉnh dẫn ba anh em Lưu Bị cùng 300 quân dũng sĩ đi trước phá giặc. Anh em Lưu Bị không hề ngần ngại, lãnh quân đi tiền đạo trực chỉ đến chân núi Đại Hưng, vì vừa thấy quân giặc kéo tới đó.

    Lưu Bị thúc ngựa ra trận, bên tả có Quan Võ, bên hữu có Trương Phi yểm hộ. Lưu Bị giơ roi mắng giặc: Đồ phản loạn, đừng hòng múa rối, hãy xuống ngựa đầu hàng cho sớm.

    Tướng giặc Khăn Vàng Trình Viễn Chí nổi giận, sai Phó tướng ra đánh. Phó tướng Đặng Mậu vừa xông ra thì Trương Phi thình lình lướt tới, đâm cho một xà mâu trúng ngay ngực, ngã lăn xuống ngựa chết liền.

    Thấy Phó tướng của mình chưa ra tay đã bị hại, Trình Viễn Chí liền múa đao xông tới đánh Trương Phi. Quan Võ liền vung đao cản lại. Uy lực của Quan Võ rất mạnh khiến Trình Viễn Chí sợ hãi, trở tay không kịp, bị Quan Võ vớt một đao đứt làm hai đoạn.

    Đó là lần đầu tiên ba anh em Lưu Bị, Quan Võ và Trương Phi ra trận chiến thắng vẻ vang.

    Nhờ công tham gia dẹp giặc Khăn Vàng, vua Hán Hiến Đế triệu ba anh em vào cung khen thưởng, nhận Lưu Bị là chú họ của vua, và phong chức là Tả Tướng Quân, còn Quan Võ và Trương Phi thì không kể đến. Do đó, nhiều người gọi Lưu Bị là Lưu Hoàng Thúc.

    Bấy giờ, nơi triều đình, Đổng Trác chuyên quyền, phế vua Hán Thiếu Đế, lập Trần Lưu Vương lên làm Hán Hiến Đế lúc mới 9 tuổi, Đổng Trác làm Tướng Quốc, nắm hết binh quyền. Các trấn chư Hầu không phục. Tào Tháo nhân cơ hội nầy, phát hịch kêu gọi các trấn chư Hầu đến họp binh tại Đức Châu, bàn việc trừ Đổng Trác. Các chư Hầu đồng tôn Viên Thiệu lên làm Minh Chủ.

    Đổng Trác sai một dõng tướng là Hoa Hùng cất quân đánh chư Hầu. Các tướng của chư Hầu không ai đánh lại Hoa Hùng, còn đang lúng túng, thì bỗng có tiếng nói: Kẻ bất tài nầy xin lấy đầu của Hoa Hùng về dâng dưới trướng.

    Mọi người nhìn lại thấy người mới nói đó là Quan Võ, em của Lưu Bị, đang đứng hiên ngang chờ lịnh.

    Tào Tháo sai quân rót một chén rượu nóng thưởng Quan Võ trước khi lên ngựa ra trận.

    Quan Võ nói: Xin cứ rót rượu, tôi sẽ trở về ngay.

    Dứt lời, Quan Võ bước ra ngoài, cầm Thanh Long đao phi thân lên ngựa bay ra mặt trận.

    Các trấn chư Hầu ngồi trong trướng, nghe bên ngoài trống trận vang rền, quân sĩ hò hét như sấm dậy. Các quan đều lo sợ định cho người ra thám thính xem sao thì bỗng nghe tiếng nhạc ngựa trở về reo lên trước trướng. Quan Võ hiện ra uy phong lẫm liệt, tay cầm thủ cấp Hoa Hùng ném xuống đất, rồi đưa tay cầm lấy chén rượu còn nóng hổi, uống một hơi.

    Tào Tháo mừng rỡ vô cùng, liền bàn kế tấn binh.

    Đổng Trác hay tin Hoa Hùng tử trận, liền cử đại binh tiếp ứng đánh các chư Hầu, Lữ Bố dẫn binh đi tiên phong nhằm nơi Thái Thú Công Tôn Toản đóng binh khiêu chiến.

    Công Tôn Toản buộc phải thúc ngựa ra đánh với Lữ Bố, nhưng chỉ được vài hiệp là Công Tôn Toản đuối sức, sắp nguy đến nơi, Trương Phi thúc ngựa chạy ra tiếp cứu.

    Trương Phi cùng Lữ Bố đánh nhau được 50 hiệp vẫn chưa phân thắng bại, Quan Võ liền giục ngựa xông ra tiếp chiến. Lữ Bố vẫn không nao núng, ba người đánh vùi. Lưu Bị nóng lòng múa cặp song cổ kiếm xông ra trợ chiến với hai em. Ba người vây đánh Lữ Bố, xoay tròn như đèn kéo quân.

    Lữ Bố biết sức mình không cự nổi ba người nên hoành kích nhắm Lưu Bị đâm một nhát, Lưu Bị né tránh thì Lữ Bố liền giục ngựa Xích thố nhảy vọt khỏi vòng chiến, chạy trở về thành cố thủ.

    Cuối cùng Tào Tháo cũng diệt được phe Đổng Trác, Tào Tháo lên làm Thừa Tướng và cũng chuyên quyền y như Đổng Trác. Ba anh em Lưu, Quan, Trương, rất bất bình, kéo quân đến chiếm Từ Châu, chống lại Tào Tháo. Lưu Bị sai Quan Võ giữ thành Hạ Bì, Tôn Càng, Giản Ung, My Trúc giữ Từ Châu, còn Lưu Bị và Trương Phi đóng binh ở Tiểu Bái.

    Tào Tháo đem binh đánh Tiểu Bái, Lưu Bị thua chạy sang nương náu với Viên Thiệu, Trương Phi chạy lạc đến Cổ Thành, giết chết quan Huyện, thu lấy ấn tín, chiếm đóng thành trì làm chỗ an thân.

    Quan Võ ở Hạ Bì cũng chịu thất thủ, bỏ chạy lên đỉnh núi Thổ San đóng binh. Trương Liêu, tướng của Tào Tháo, đến gặp Quan Võ tỏ bày hơn thiệt. Trương Liêu nói:

    - Tôi vì cảm nghĩa ngày trước anh cứu tôi, nay tôi đến đây đem tin cho anh rõ: Lưu Bị hiện lưu lạc ở đâu chưa rõ, còn Trương Phi chẳng biết mất còn. Hôm qua, Tào Tháo đã chiếm thành Hạ Bì, dân chúng trong thành đều không bị hại, gia quyến của Lưu Bị được Tào Tháo bảo vệ tử tế.

    Quan Võ nổi giận hét lớn:

    - Trương Liêu dám đến đây dụ ta hay sao? Ta thà chết chớ không đầu hàng ai cả. Hãy về đi, nếu không ta chém đầu bây giờ.

    - Anh nói thế không sợ người ta chê cười anh sao? Tôi vì sợ thiên hạ chê cười anh nên mới đến đây nói cho anh rõ, chớ đâu dám đến dụ hàng.

    - Ngươi nói thiên hạ cười ta việc gì?

    - Tôi biết anh dũng lực có thừa, song hiện nay thế binh của anh tan vỡ, nếu liều chết thật là có tội.

    - Ta bình sanh không chịu nhục, nay ta ra trận quyết sống thác với địch, nay chẳng may thất cơ thì liều chết mà đền nợ nước, sao lại có tội?

    - Nếu anh liều chết, anh sẽ phạm 3 tội. Anh thử nghĩ xem, Lưu Bị hiện nay thất lạc, nhưng chí cả chưa đoạt, thế nào cũng cần người nghĩa dũng, nếu sau nầy LưuBị cần đến anh mà không có anh tức là anh có tội thứ nhứt. Lưu Bị lại phó thác gia quyến cho anh mà anh chết rồi thì ai bảo vệ giaquyến ấy, đó là tội thứ nhì. Anh là kẻ võ nghệ siêu quần, há lại không khuông phò nhà Hán để danh muôn thuở, lại liều chết như thế phỏng có ích gì, đó là tội thứ ba.

    Quan Võ nghe Trương Liêu phân tách như thế thì dịu xuống, thở dài nói:

    - Ngươi nói ta ba tội, vậy ngươi bảo ta bây giờ phải làm thế nào?

    - Nay bốn phía đều có binh của Tào Tháo, nếu chống cự cũng không thoát khỏi, chi bằng hãy tạm đầu hàng để nghe ngóng tin tức của Lưu Bị. Nếu người còn ở nơi nào thì anh sẽ đến đó tìm. Như vậy, một là anh bảo vệ được hai vị phu nhân của Lưu Bị, hai là chẳng phụ lời ước thệ ngày xưa, ba là để dành cái thân hữu dụng ngày sau giúp cho nhà Hán. Ba điều ấy, anh nên suy nghĩ.

    Quan Võ nói:

    - Ngươi nói ba điều ấy, ta lại có ba điều ước: nếu Tào Thừa Tướng bằng lòng khứng chịu, ta sẽ cởi giáp hàng đầu, còn thiếu một điều ta quyết liều chết mà thôi.

    Một là ta với Lưu Bị có thề với nhau một lòng giúp nhà Hán, nay ta đầu là đầu Hán Đế chớ không phải đầu Tào.

    Hai là xin lấy lương bổng của Lưu Hoàng Thúc cấp cho nhị tẩu của ta, lại không một ai được bén mảng đến chỗ ở của nhị tẩu của ta.

    Ba là khi nào hay tin anh ta ở đâu thì ta lập tức đến đó, dù đường xa ngàn dặm.

    Trương Liêu ưng chịu trở về ra mắt Tào Tháo và nói rõ ba điều ước của Quan Vân Trường. Tào Thừa Tướng đành chấp nhận vì rất mến nghĩa khí của Quan Võ.

    Hôm sau, Tào Tháo truyền lịnh thâu binh về Hứa Xương. Quan Võ thỉnh nhị tẩu lên xe, tự mình đi theo hộ vệ. Khi quân đến trạm dịch, Tào Tháo truyền quân đóng lại nghỉ ngơi, lại truyền Quan Võ ở chung một nhà với nhị tẩu: Cam Phu nhân và My Phu nhân, hai bà vợ của Lưu Bị, tức là hai chị dâu của Quan Võ.

    Đêm ấy, Quan Võ cầm đuốc đứng trước cửa nhà suốt đêm để canh cho hai chị dâu an giấc, đồng thời lấy Thanh Long đao chém sạt một góc tường để người ngoài nhìn vào thấy rõ lòng quang minh chánh đại của Quan Võ. Tào Tháo biết được đem lòng kính phục vô cùng.

    Tào Tháo dắt Quan Võ vào triều yết kiến vua Hán Hiến Đế, được vua phong cho chức Thiên Tướng Quân.

    Quan Võ có bộ râu 5 chòm rất đẹp, được vua khen là Mỹ Nhiêm Công (Mỹ là đẹp, Nhiêm là râu mọc, Công là Ông).

    Kể từ đó, Quan Võ và hai chị dâu nương nhờ nơi dinh của Tào Tháo. Tào Tháo hết sức trọng đãi để chiêu dụ Quan Công, ba ngày đãi một tiệc nhỏ, bảy ngày đãi một tiệc lớn, lên ngựa thưởng vàng, xuống ngựa thưởng bạc.

    Tào Tháo lại đem ngựa Xích thố bắt được của Lữ Bố tặng cho Quan Công. Quan Công phục xuống lạy tạ ơn. Tào Tháo ngạc nhiên hỏi:

    - Ta đã bao phen trao tặng nào mỹ nữ, nào vàng bạc, nào gấm vóc, sao chẳng thấy Vân Trường vui, nay tặng cho con ngựa nầy Vân Trường lại tạ ơn hậu như vậy?

    Quan Công nói:

    - Tôi biết con ngựa quí nầy ngày đi ngàn dặm. Nay được Thừa Tướng ban ơn, nếu biết anh tôi ở đâu thì tôi có thể đi một ngày là gặp, nên tôi cảm ơn Thừa Tướng rất nhiều.

    Tào Tháo nghe nói như vậy thì hối hận, nhưng đành thôi.

    Lúc đó Viên Thiệu hưng binh đánh Tào Tháo. Tướng Tiên phuông của Viên Thiệu là Nhan Lương rất tài giỏi, các tướng của Tào Tháo không ai cự nổi. Tào Tháo phải vời Quan Công đến cự địch. Tào Tháo nói:

    - Nhan Lương giết luôn hai tướng của ta, chẳng ai dám ra đánh nên phải mời Vân Trường đến đây bàn định.

    Quan Công liền nói:

    - Tuy tôi bất tài, song cũng xin ra trận lấy đầu Nhan Lương đem về nạp cho Thừa Tướng.

    - Giữa chốn ba quân không nên nói đùa.

    Quan Công hăng hái nhảy phóc lên ngựa xích thố, chạy bay đến chỗ Nhan Lương, vẹt quân Nhan Lương ra hai bên, thấy Nhan Lương đang đứng dưới cây lọng. Nhan Lương thấy Quan Công vừa muốn hỏi thì ngựa xích thố đã đến trước mặt rồi, Nhan Lương chưa kịp trở tay, bị Quan Công vớt một đao, Nhan Lương ngã lăn xuống ngựa. Quan Công nhảy xuống cắt lấy thủ cấp, rồi phi thân lên yên, vung đao lướt ra khỏi trận. Binh Tướng của Nhan Lương nhốn nháo cả lên, thừa dịp binh Tào tràn sang chém giết tơi bời.

    Quan Công phi ngựa đến trước Tào Tháo dâng nạp thủ cấp của Nhan Lương. Tào Tháo hết sức khen ngợi:

    - Tướng quân là Thần nhân đó.

    Tào Tháo làm biểu tâu với Hán Đế, phong thưởng cho Quan Công làm chức Hán Thọ Đình Hầu, sai đúc ấn ban cho Quan Công.

    Sau đó, Viên Thiệu sai Đại Tướng Văn Xủ lên thay cầm quân đánh Tào Tháo.

    Tướng Tào là Trương Liêu chống cự không nổi phải bỏ chạy, Quan Công lướt tới, Văn Xủ mắng:

    - Mi đã giết Nhan Lương là bạn của ta, lẽ nào ta không trả thù được hay sao?

    Nói rồi cầm thương xốc ngựa đến đánh Quan Công. Hai bên cự địch được ba hiệp, Quan Công giục ngựa Xích thố bay đến bất ngờ chém Văn Xủ rơi đầu xuống đất.

    Trần Chấn đem tin đến cho Quan Công biết, hiện Lưu Bị đang ở Hà Bắc. Quan Công vào cho hai chị hay để chuẩn bị ra đi tìm Lưu Bị. Quan Công sai gia nhân thu thập hành trang, sửa soạn xe ngựa. Tất cả những thứ gì mà Tào Tháo đã ban cho phải để lại hết, vàng bạc thì niêm phong cất vào kho, còn cái ấn Hớn Thọ Đình Hầu thì buộc treo lơ lửng nơi xà nhà. Quan Công đến dinh Tào Tháo từ biệt, ba lần mà không gặp mặt, liền viết một bức thơ để lại từ tạ Tào Tháo, đại lược như sau:

    "Võ nầy tự thiếu thời thờ Lưu Huyền Đức, thề sống chết có nhau, lẽ đâu dám phụ. Trước đây, thành Hạ Bì thất thủ, có ước hẹn với Thừa Tướng ba điều. Nay được biết chủ cũ hiện đang ở nơi Hà Bắc. Hồi tưởng lời thề năm xưa, lòng nầy há dám phụ phàng. Vậy xin dâng thư nầy cáo biệt Thừa Tướng. Còn ơn nào thiếu sót chưa đền, xin đợi ngày mai báo đáp."

    Quan Công sai niêm phong kho tàng cẩn mật, rồi mời nhị tẩu lên xe, Quan Công cỡi ngựa Xích thố, cầm Thanh long đao, dẫn vài mươi đứa tùy tùng, nhắm hướng Hà Bắc tiến tới.

    Quá Ngũ quan trảm Lục tướng:

    . Quan Công đến ải Đông Lĩnh, tướng giữ ải là Khổng Tú không cho qua. Quan Công đành phải giết chết Khổng Tú mới qua ải được.

    . Đến ải Lạc Dương, Thái Thú Hàn Phúc và tướng Mạnh Thản ngăn chận, 2 người đều bị chết dưới ngọn Thanh long đao.

    . Quan Công tiếp tục bảo hộ hai chị dâu đi đến ải Nghi Thủy. Tướng giữ ải là Biện Hỷ cho quân đao phủ mai phục nơi Trấn Quốc Tự, rồi dụ Quan Công đến nghỉ ở đó. Trong Chùa Trấn Quốc nầy có Đại Sư Phổ Tịnh, người cùng quê với Quan Công, báo cho Quan Công biết âm mưu của Biện Hỷ. Quan Công kịp thời đối phó, giết chết Biện Hỷ, quân đao phủ chạy tán loạn. Quan Công tạ ơn Phổ Tịnh:

    - Nếu không nhờ Đại sư, chắc tôi bị hại rồi.

    - Bây giờ tôi cũng không thể ở chùa nầy được nữa, phải đi vân du để tránh bè đảng của chúng, xin Tướng quân rán giữ mình, ngày sau chúng ta còn dịp gặp gỡ.

    Quan Công từ giã Phổ Tịnh, rồi hộ tống xe của hai chị dâu đi thẳng đến ải Huỳnh Dương.

    . Tại ải Huỳnh Dương, quan Thái Thú giữ ải là Vương Thực, sui gia với Hàn Phúc, nên lập kế giết Quan Công trả thù cho Hàn Phúc.

    Vương Thực chuẩn bị hỏa công đốt quán dịch, nơi Quan Công và hai chị dâu tạm nghỉ. Nhờ có Hồ Bang báo cho biết, Quan Công vội phò nhị tẩu thoát đi. Vương Thực dẫn quân rượt theo, bị Quan Công vớt cho một đao bay đầu.

    . Đến ải Hoàng Hà, Tần Kỳ xông đến ngăn lại, đánh với Quan Công được vài hiêp rồi cũng bay đầu.

    Quan Công vội lấy thuyền đưa nhị tẩu qua sông Hoàng Hà, tới địa phận Hà Bắc. Tôn Càng đón Quan Công, báo tin Lưu Hoàng Thúc đã qua Nhữ Nam, nên Quan Công bỏ đường đi Hà Bắc, rẽ qua Nhữ Nam.

    Khi đi ngang qua Ngọa Ngưu Sơn thì thâu phục được một bộ tướng là Châu Thương.

    Châu Thương, quê ở Quan Tây, hai tay xách nổi ngàn cân, râu quai nón, hình dung dữ tợn, trước đây theo giặc Khăn Vàng. Khi giặc Khăn Vàng tan rã thì Châu Thương ẩn nơi núi rừng làm thảo khấu, nhưng rất hâm mộ uy danh của Quan Công, nên khi gặp được Quan Công thì cải tà qui chánh, theo hầu Quan Công. Nhưng Quan Công bảo Châu Thương hãy tạm ở lại đây, chờ sau sẽ đến rước.

    Châu Thương nói với Quan Công:

    - Trước mặt có một Cổ Thành rất kiên cố. Cách đây không bao lâu, có một người tên là Trương Phi đến chiếm cứ, tập hợp được hơn 4000 binh mã, bốnphía không ai dám cự địch.

    Quan Công đưa nhị tẩu vào Cổ Thành giao cho Trương Phi bảo vệ, rồi cùng với Tôn Càng đi Nhữ Nam tìm Lưu Bị.

    Dọc đường, Quan Công đến một túp lều tranh xin trọ đỡ, gặp một Cụ già chống gậy bước ra, xưng danh là Quan Định, cùng họ với Vân Trường. Quan Định có đứa con trai tên là Quan Bình mới vừa 10 tuổi, cho theo hầu Quan Công, được Quan Công nhận làm con nuôi.

    Tôn Càng đến gặp Lưu Bị, rồi lập kế ra đi thoát khỏi tay Viên Thiệu, thẳng đến Ngọa Ngưu Sơn, để hiệp với binh của Châu Thương ở đó, nhưng khi đến nơi thì binh của Châu Thương đã bị Triệu Tử Long đánh tan và chiếm cứ nơi đó.

    Thế là một nhà xum hiệp, trở lại Cổ Thành, lại có thêm được Triệu Tử Long; Quan Công thì có thêm được Châu Thương và Quan Bình. Anh em mừng rỡ, mở tiệc ăn mừng.

    Trải qua một thời gian, thế nước chia ba, Lưu Bị liên kết với Ngô Tôn Quyền chống lại Tào Tháo.

    Tào Tháo đem đại binh 83 vạn quân xuống đóng dọc theo sông Trường giang, tập luyện binh sĩ thủy chiến, chuẩn bị đánh Đông Ngô. Khổng Minh, Quân sư của Lưu Bị, sang Đông Ngô bày kế giúp Chu Du, Đại Đô Đốc của Ngô Tôn Quyền, lập trận Xích Bích, dùng hỏa công đánh tan 83 vạn quân Tào. Tào Tháo thảm bại, dắt tàn quân chạy qua Hoa Dung Đạo để về Hứa Đô. Khổng Minh toán quẻ biết trước việc đó, nên sai Quan Công đem binh đón bắt Tào Tháo.

    Khổng Minh nói với Lưu Bị:

    - Sở dĩ tôi sai Vân Trường đón bắt Tào Tháo nơi Hoa Dung Đạo là để Vân Trường trả nghĩa Tào Tháo, vì tôi xem Thiên văn biết mạng Tào Tháo lớn lắm, chưa chết được.

    Đúng như lời của Khổng Minh, Tào Tháo đại bại ở trận Xích Bích, kéo tàn quân chạy qua Hoa Dung Đạo về Hứa Đô

    Giữa đường bị Vân Trường chận đường, Tào Tháo chết đứng, hối các tướng xuống ngựa năn nỉ:

    - Tôi đã bị bại binh, thế nguy đến đây cùng đường. Xin Quan Hầu nghĩ tình tôi ngày trước mà tha cho.

    Quan Vân Trường đáp:

    - Ngày trước, tôi tuy mang ơn Thừa Tướng rất hậu, song công tôi chém Nhan Lương và Văn Xủ cũng đủ trả rồi. Hôm nay Thừa Tướng lại lấy việc tư mà bỏ việc công sao?

    Tào Tháo năn nỉ tiếp:

    - Thế lúc Quan Hầu qua năm ải, chém chết sáu tướng, Quan Hầu còn nhớ không? Hễ là đại trượng phu thì phải lấy ơn làm trọng. Quan Hầu đã từng đọc Kinh Xuân Thu há chẳng nhớ việc Du Công Chi Tư đuổi theo Tử Trạc Nhu Tử đó sao? Hôm nay, với mấy tên tàn quân ở bước đường cùng, đã xuống ngựa để cầu an mà Quan Hầu không niệm tình thì đâu phải là đại trượng phu.

    Vân Trường nhìn thấy Tào Tháo xác xơ, quân sĩ tả tơi như muốn khóc, bắt động lòng, không nỡ ra tay, liền quay ngựa bảo quân tránh ra mở đường sanh lộ cho Tào Tháo.

    Tào Tháo hối quân sĩ chạy thoát qua chỗ ấy. Vân Trường ngó theo, hét lên một tiếng, bao nhiêu quân Tào đều khóc lạy dưới ngựa. Vân Trường thấy vậy càng thêm bất nhẫn. Lại thấy Trương Liêu giục ngựa chạy đến, tình cố cựu động tâm, Vân Trường than dài rồi tha cho cả bọn đi hết.

    Sau đó, Vân Trường được lịnh đi đánh Trường Sa. Thái Thú Trường Sa là Hàn Huyền bất tài nhưng có Lão tướng Hoàng Trung tài giỏi phò tá.

    Hoàng Trung ra đánh với Quan Võ cả trăm hiệp mà sức cầm đồng, bỗng con ngựa của Hoàng Trung quỵ hai chân trước làm ông ta té ngã xuống đất. Quan Võ dừng đao hét: Ta tha chết cho ngươi, mau trở về thay ngựa khác ra đây đánh với Ta."

    Nhờ nghĩa khí đó mà Hoàng Trung tâm phục Quan Võ. Ngụy Diên nổi lên chém chết Hàn Huyền rồi cả hai mở thành rước Quan Võ vào chiêu an bá tánh. Thế là bên cánh Lưu Bị có thêm được hai đại tướng nữa là Hoàng Trung và Ngụy Diên.

    Lưu Bị và Khổng Minh đem đại binh đi đánh Tây Thục, giao Kinh Châu cho Quan Võ gìn giữ.

    Phía Đông Ngô, Lỗ Túc bàn kế với Tôn Quyền: Nay tôi ra đóng binh ở Lục Khẩu, sai người qua mời Quan Võ phó hội. Nếu hắn chịu đến, tôi sẽ dùng lời lẽ phải chẳng mà bảo hắn trả đất Kinh Châu cho ta, nếu hắn không nghe thì tôi hô quân đao phủ ùa ra giết hắn.

    Tôn Quyền bằng lòng kế ấy, liền cho sứ giả qua Kinh Châu mời Quan Võ qua Đông Ngô phó hội. Quan Võ nhận lời

    Quan Bình can nghĩa phụ:

    - Sao nghĩa phụ xem thường tấm thân muôn trượng, dấn thân vào hang hùm ổ sói, nếu rủi ro có bề nào có phải phụ lòng bá phụ không?

    Quan Võ nói:

    - Ta từng xông pha nơi rừng tên mũi giáo, một đao một ngựa tung hoành, có sá gì lũ chuột Giang Đông. Đời Chiến Quốc có Lạn Tương Như nước Triệu, tay trói gà không chặt, mà giữa Hội Dân Trì, còn coi vua nước Tần như cỏ rác, huống chi ta là người có sức địch nổi muôn người. Một lời đã hứa không thể thất tín.

    Bên Đông Ngô, Lỗ Túc bàn với Lữ Mông: Lữ Mông và Cam Ninh lãnh vài ngàn quân chia nhau phục nơi bờ sông, nếu thấy QuanVõ đem binh đội theo thì đổ ra chận đánh. Còn Quan Võ không đem quân theo thì cho phục sẵn 50 quân đao phủ sau đình, hễ nghe hiệu lịnh thì nhảy ra giữa tiệc giết chết Quan Võ.

    Đến giờ ước hẹn, Lỗ Túc thấy Vân Trường ngồi trên thuyền nhỏ, có Châu Thương cầm đao đứng hầu, có 10 đại hán đất Quan Tây đeo mã tấu đứng hầu hai bên, trên thuyền có một lá cờ đỏ đề chữ Quan rất lớn. Vân Trường mặc áo bào lục, đầu đội khăn xanh, ngồi oai vệ giữa thuyền.

    Lỗ Túc ra bến đón Vân Trường vào dự tiệc nơi Thủy Đình. Vân Trường nét mặt như hoa, nói cười sang sảng, không chút sợ sệt. Sau một hồi dự tiệc, Lỗ Túc đem chuyện đòi đất Kinh Châu nói với Vân Trường. Vân Trường đáp:

    - Việc đó của anh tôi, tôi không tự ý quyết định được.

    Châu Thương đứng hầu phía sau xen vào nói lớn:

    - Đất đai của thiên hạ, ai có tài đức thì chiếm cứ, đâu phải của riêng Đông Ngô mà các ông đòi.

    Vân Trường sa sầm nét mặt, đứng phắt dậy, bước tới giật lấy cây đao trong tay Châu Thương nạt:

    - Đó là việc quốc gia đại sự, sao mày dám xen vào. Hãy cút đi mau lên.

    Châu Thương hiểu ý, lập tức lui ra bờ sông, phất cờ đỏ ra hiệu. Quan Bình thấy cờ hiệu, vội lướt thuyền như bay qua sông, đến bờ bên Đông Ngô để tiếp ứng.

    Bấy giờ Vân Trường đang ở trong Đình, tay mặt cầm đao, tay trái nắm chặt Lỗ Túc, giả bộ say lè nhè nói:

    - Hôm nay Ngài mời tôi sang đây dự tiệc, xin đừng nhắc chuyện Kinh Châu làm mất vui. Tôi say rồi, nếu xảy ra điều gì sẽ tổn thương đến tình cố cựu. Để hôm nào tôi rảnh, tôi sẽ cho người sang mời Ngài qua Kinh Châu họp mặt.

    Lỗ Túc bị Vân Trường nắm chặt cánh tay, hồn phi phách tán, không còn biết xoay sở thế nào được. Vân Trường giả say, nắm chặt Lỗ Túc từ từ đi xuống bờ sông. Lữ Mông cùng với Cam Ninh phục sẵn nơi bờ sông, nhưng chẳng dám động thủ vì Vân Trường đang kềm chế Lỗ Túc.

    Vân Trường bước lên thuyền, buông tay Lỗ Túc, nói lời từ biệt. Lỗ Túc lúc nầy như người mất vía, đứng trân nhìn đoàn thuyền của Vân Trường rẽ sóng lướt nhanh trở về Kinh Châu.

    Từ khi Lưu Bị sai Vân Trường trấn thủ Kinh Châu, Lưu Bị có cưới vợ cho Vân Trường, sanh được một trai đặt tên là Quan Hưng, và một gái đặt tên là Quan Ngân Bình.

    Gia Cát Cẩn bàn kế với Tôn Quyền là đi cầu hôn con gái của Vân Trường cho Thế tử của Đông Ngô. Vân Trường nặng lời từ chối và đuổi Gia cát Cẩn trở về.

    Vân Trường được lịnh đi đánh Phàn Thành, chém chết Bàng Đức, bắt sống Vu Cấm, oai danh lừng lẫy. Trong khi đánh phá Phàn Thành, Vân Trường bị Tào Nhơn bắn một mũi tên có tẩm thuốc độc, trúng vào cánh tay mặt. Quan Bình điều binh rút về trại để chữa trị vết thương cho Vân Trường. Thần y Hoa Đà nghe tin liền tìm đến nơi để điều trị vết thương.

    Vân Trường cởi áo bào ra, đưa cánh tay bị tên cho Hoa Đà xem vết thương. Hoa Đà xem kỹ rồi nói:

    - Ấy là tên ná, có tẩm thuốc độc, chất độc đã thấm tới xương, nếu không trị sớm thì cánh tay nầy sẽ trở nên vô dụng. Bây giờ phải lựa một chỗ vắng vẻ, trồng một cây trụ cho thật chắc, đóng vào đó một cái khoen. Tôi phải cột tay tướng quân vào đó, bịt mắt tướng quân lại, rồi tôi mổ vết thương ra, lóc thịt đã thấm chất độc bỏ đi, cạo bỏ chất độc đã thấm vô xương, rồi rịt thuốc may lại, để tướng quân trông thấy chắc không chịu nổi.

    Vân Trường cười nói:

    - Như vậy có chi mà không chịu nổi.

    Liền bày tiệc rượu thết đãi. Vân Trường uống mấy chén, rồi bày cờ ra đánh với Mã Lương, tay trái đánh cờ, tay mặt đưa ra cho Hoa Đà mổ.

    Hoa Đà cầm dao mổ lên nói:

    - Nào, tôi xin bắt đầu, Ngài chớ giựt mình.

    - Ta không phải là kẻ phàm phu nhút nhát đâu.

    Mọi người thấy Hoa Đà làm mà rùn mình, nhưng Vân Trường vẫn thản nhiên ngồi đánh cờ. Hoa Đà làm xong, rịt thuốc may lại, nói:

    - Tôi chưa bao giờ thấy một người khí phách như thế nầy, tiếng đồn thật chẳng sai.

    Quan Vân Trường đứng dậy nói:

    - Cánh tay nầy bây giờ hết đau nhức rồi, co dãn được như thường. Tiên sinh là Thần y đó.

    Quan Công sai đem 100 lượng vàng thưởng công cho Hoa Đà, nhưng Hoa Đà từ chối, nói:

    - Tôi nghe Vân Trường là người trung nghĩa, nên đến trị bịnh, chớ đâu phải để lấy tiền. Xin Ngài chớ nhọc lòng.

    Nói xong từ giã Vân Trường ra về.

    Một hôm, Vân Trường vào trướng phủ ngủ trưa, bỗng chiêm bao thấy một con heo lớn đen thui chạy đến cắn nơi chân mình. Vân Trường thét lên định rút gươm ra chém, liền giựt mình tỉnh dậy. Vân Trường trong lòng nghi ngại không yên, nói với Quan Bình:

    - Ta nay đã gần 60 tuổi rồi, làm tướng xông pha trong ba quân đã lâu, giá như nay chết đi cũng không ân hận gì nữa.

    Sau đó, Quan Vân Trường lầm mưu của Lữ Mông và Lục Tổn để mất Kinh Châu, lại bị quân Tào phía Bắc đánh xuống, lưỡng đầu thọ địch, nên thua trận chạy về Mạch Thành chống giữ. Quan Công lại sai Liêu Hóa vượt vòng vây chạy đến Thương Dung kêu Lưu Phong (con nuôi của Lưu Bị) và Mạnh Đạt đem binh tới giúp, nhưng Lưu Phong và Mạnh Đạt sợ chết nên từ chối.

    Liêu Hóa thấy không xong, liền nhắm Thành đô chạy riết để cầu cứu với Hán Trung Vương Lưu Bị.

    Tôn Quyền cho Gia Cát Cẩn qua dụ hàng Quan Công, nhưng lòng Quan Công như sắt đá, không thể dụ được.

    Lữ Mông dâng kế:

    Quan Công cố thủ Mạch Thành, không chịu hàng đầu, chẳng bao lâu lương thực hết thì phải bỏ thành tìm đường trốn về Tây Thục. Phía Bắc Mạch Thành có một con đường nhỏ rất hiểm trở, nếu Vân Trường bỏ thành ắt phải theo con đường đó mà đi. Phải sai Chu Nhiên đem quân đến phía Bắc Mạch Thành mai phục, gặp Vân Trường kéo quân đi ra thì chớ đánh vội, cứ phía sau rượt nà, để hắn chạy qua ngã Lâm Thư. Lại sai Phan Chương dẫn 500 binh hùng phục nơi đường Lâm Thư, chỗ núi non chật hẹp, dùng dây giăng ngang đường và câu móc mà giựt thì các ngựa chiến té quị, binh túa ra bắt sống Quan Công.

    Quan Công trông mãi không thấy binh cứu viện, kiểm điểm binh mã chỉ còn được 300, lương thực hết sạch, ba mặt thành Đông, Tây, Nam, đều bị quân Đông Ngô công phá rất ngặt, chỉ còn mặt Bắc là ít hơn.

    Quan Công truyền Châu Thương và Vương Phủ ở lại thủ thành, còn Quan Bình với Triệu Lụy và vài chục quân đi theo Quan Công vượt trùng vây để đi Tây Thục theo cửa Bắc Mạch Thành tiến ra.

    Đi được vài dặm thì gặp phục binh, Triệu Lụy tử trận. Quan Công đi trúng vào mưu kế của Lữ Mông, ngựa Xích thố bị vấp chân ngã nhào, Quan Công té xuống đất, bộ tướng của Phan Chương là Mã Trung bắt sống được Quan Công cùng với Quan Bình và toàn bộ mấy chục tên quân đi theo.

    Phan Chương giải Quan Công và Quan Bình đến Tôn Quyền. Tôn Quyền chiêu dụ nhiều lần nhưng Quan Công nhứt định không chịu đầu hàng. Tôn Quyền ra lịnh đem cha con Quan Công ra pháp trường xử trảm. Quan Công thọ 58 tuổi.

    Quân Đông Ngô đem thủ cấp của Quan Công và Quan Bình đến Mạch Thành để gọi Châu Thương và Vương Phủ đầu hàng. Châu Thương thấy chủ tướng đã chết, nên khóc lóc rồi tự vận chết theo, Vương Phủ thì nhào đầu xuống chơn thành tự tử.

    Còn con ngựa Xích thố của Quan Công được Tôn Quyền thưởng công cho Mã Trung, nhưng ngựa bỏ ăn và vài ngày sau thì chết, linh hồn bay theo chủ.

    Tôn Quyền mở tiệc khao thưởng các tướng và quân sĩ. Tôn Quyền nói:

    - Nay nhờ mưu của Lữ Mông mới bắt được Quan Công và giết đi, lấy được đất Kinh Châu, công ấy rất lớn.

    Nói rồi rót một chén rượu, bưng đến thưởng Lữ Mông. Lữ Mông tiếp lấy chén rượu toan uống, bỗng dưng ném chén rượu xuống đất, nhảy lại thộp ngực Tôn Quyền, mắng lớn:

    - Thằng mặt xanh râu đỏ và bọn chuột kia có biết ta là ai không?

    Chư tướng thất kinh, vừa muốn bước lại gỡ Tôn Quyền và xô Lữ Mông ra thì Lữ Mông đã xô Tôn Quyền té nhào xuống đất, rồi nhảy vọt lên ghế của Tôn Quyền ngồi, trợn đôi mắt tròn vo, hét lớn:

    - Hán Thọ Đình Hầu Quan Vân Trường là ta đây.

    Tôn Quyền và các tướng hoảng sợ, quì lạy lia lịa. Bỗng Lữ Mông té nhào xuống đất, hộc máu chết tươi.

    Tôn Quyền và các tướng Đông Ngô phải một phen hoảng vía trước sự hiển linh báo thù của Quan Công.

    Mưu thần của Tôn Quyền nói:

    - Quan Công chết rồi, thế nào Lưu Bị và Khổng Minh cũng kéo đại binh đến đánh Đông Ngô báo thù. Bây giờ ta phải đem thủ cấp của Vân Trường gởi qua Tào Tháo, để cho Lưu Bị nghĩ rằng Tào Tháo chủ mưu trong vụ nầy. Như vậy, Lưu Bị sẽ căm giận Tào Tháo, giải được mối nguy cho Đông Ngô.

    Tôn Quyền nghe theo, đóng một cái thùng đựng thủ cấp của Quan Công, rồi sai sứ đem dâng cho Tào Tháo.

    Tư Mã Ý nói với Tào Tháo:

    - Quan Công cùng Lưu Bị và Trương Phi kết nghĩa anh em với nhau. Nay Quan Công đã chết, thế nào Lưu Bị và Trương Phi cũng đem binh báo thù. Đông Ngô lo sợ cái họa ấy nên đem đầu của Quan Công đến đây gieo họa cho ta.

    Tao Tháo hỏi:

    - Như thế ta phải làm sao?

    - Đại Vương nên hết lòng tử tế, sai quân tạc một hình gỗ trầm hương, đem đầu Quan Công chắp vào, rồi tẫn liệm, làm lễ an táng theo hàng vương hầu. Lưu Bị hay được ắt cho Đại Vương là người ơn, còn Đông Ngô chính là kẻ tử thù.

    Tào Tháo mừng rỡ làm y theo kế ấy, lại nhìn thủ cấp của Quan Công nói đùa một câu:

    - Quan Hầu mạnh giỏi đấy chứ?

    Bỗng cái đầu của Quan Công trợn mắt tròn vo, tóc râu dựng ngược. Tào Tháo thất kinh té nhào xuống đất. Chư tướng đỡ lên. Sứ giả Đông Ngô lại đem chuyện Lữ Mông bị Quan Công bắt hộc máu chết kể lại cho Tào Tháo nghe nữa.

    Tào Tháo khiếp vía, làm y theo lời Tư Mã Ý, dùng Vương lễ an táng Quan Công. Tào Tháo bổn thân quì tế, đặt quan giữ mộ và cúng tế 4 mùa.

    Về phần linh hồn của Quan Công, uất khí chưa tan, linh hồn bay lơ lửng về phía núi Ngọc Tuyền, trên núi có một ngôi chùa mà Đại Sư Phổ Tịnh đang tu tại đó.

    Đêm ấy trăng sáng, vừa mãn canh ba, bỗng nghe trên không có tiếng kêu lớn: Trả đầu cho ta. Phổ Tịnh ngước mặt nhìn lên mây, thấy một người cỡi ngựa Xích thố, cầm cây Thanh long đao, bên tả có một tướng mặt trắng khôi ngô, bên hữu có một tướng mặt đen râu quai nón, theo hầu.

    Phổ Tịnh lấy đuôi chủ gõ vào cửa nói:

    - Vân Trường ở đâu?

    Hồn Vân Trường liền đáp xuống trước chùa, hỏi:

    - Sư Cụ là ai? Xin cho biết pháp hiệu.

    Phổ Tịnh đáp:

    - Lão Tăng là Phổ Tịnh, khi trước nơi chùa Trấn Quốc, Quan Hầu quên rồi sao?

    - Trước kia tôi nhờ ơn Ngài cứu cho, nay tôi đã thác, xin Ngài chỉ đường mê muội cho tôi.

    - Nay Quan Hầu bị Lữ Mông làm hại, kêu lên: Trả đầu cho ta , thế còn Nhan Lương, Văn Xủ, sáu tướng qua năm ải, và biết bao nhiêu cái đầu khác nữa, họ đòi vào đâu?

    Quan Công nghe Đại Sư Phổ Tịnh nói câu ấy thì chợt tỉnh ngộ, liền biến mất. Phổ Tịnh biết Quan Công hiển Thánh. (Viết theo truyện Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa)

    Khi Quan Công đã hiển Thánh rồi, Ngài trừ tà diệt quỉ, cứu độ sanh linh, và từ đó đến nay, Ngài không tái kiếp, mà dùng quyền hành thiêng liêng để lập công, đạt được Phật vị, gọi là Cái Thiên Cổ Phật.

    Trong Đạo Cao Đài, Hội Thánh lấy ngày 24 tháng 6 âm lịch hằng năm làm ngày Đại lễ Vía Đức Quan Thánh. Khi đến ngày nầy, tại Tòa Thánh và các Thánh Thất địa phương đều thiết lễ Đại đàn cúng Vía Đức Quan Thánh Đế Quân, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại công đức của Ngài.

    Để bổ túc cho phần Tiểu sử trên của Đức Quan Thánh, xin chép ra sau đây bài Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp vào thời Tý ngày 24-6-Mậu Tý (dl 30-7-1948) tại Đền Thánh nhân Lễ Vía Đức Quan Thánh:

    "Hôm nay là ngày Vía Đức Cái Thiên Cổ Phật Quan Thánh Đế Quân, tức là Hớn Thọ Đình Hầu Quan Vân Trường nhà Hớn, đời Tam Quốc. Một vị hiển Thánh đời Hớn thời Tam Quốc, ngày nay đạt phẩm vị đến Tam Trấn Oai Nghiêm trong nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn, sự vinh hiển cao trọng đó, ta thấy gía trị vô đối.

    Với một Đấng thiêng liêng mà lập vị mình một cách oai quyền vinh hiển, ta thường thấy rất ít, thảng có chăng trong nước Việt Nam ta, Đức Trần Hưng Đạo gọi là có thể đương đầu với Ngài được mảy may chút ít mà thôi, chớ phần đông từ thử đến giờ, kể cả các nước Á Đông nầy hiếm có.

    Vậy ta nên khảo cứu coi Ngài làm thế nào đạt được Thiên vị vinh diệu đặc biệt dường ấy.

    Hớn Thọ Đình Hầu Quan Vân Trường buổi nọ là một vị tướng của Thục, tức Lưu Bị. Ta thấy đại nghĩa của Ngài, trung can nghĩa khí của Ngài, nhứt là về bằng hữu chi giao, tình nghĩa đối với bạn hữu của Ngài, dám chắc dầu chúng ta, dân tộc Việt Nam hằng chịu ảnh hưởng văn hóa Nho Tông, chưa có được người nào giống như Ngài vậy. Tâm trung nghĩa, chẳng vì sang mà theo Tào, chỉ chuộng Hớn, nghĩa chẳng vì bạn buổi khổ não truân chuyên mà phụ rãy tình nhau. Trung và nghĩa ấy hy hữu.

    Nói đến chí khí của Ngài, Bần đạo tưởng luận không hết: Ngài bất sát hạ mã chi nhơn. Truyện sách lưu lại rằng Ngài suýt bị Hạ Hầu Đôn giết vì nó biết cái sở yếu của Ngài mà lợi dụng, nếu không có Trương Liêu đến cứu. Mỗi khi Ngài trở cây Yển Nguyệt Thanh long đao định vớt nhà nớ thì nhà nớ nhảy xuống ngựa. Chí khí đó, thế gian hy hữu. Ngài lập chí với bộ sách Xuân Thu mà thôi.

    Người sau có tặng Ngài đôi liễn:

    Chí tại Xuân Thu, công tại Hớn,

    Trung đồng nhựt nguyệt, nghĩa đồng Thiên.

    (Chí hướng lập ở Kinh Xuân Thu của Đức Khổng Tử, công lao lập với nhà Hán. Lòng trung sáng như vừng mặt trời mặt trăng, cái nghĩa cao như trời.)

    Trọn đời Ngài không lúc nào rời bộ sách Xuân Thu nầy, đọc để lấy tinh thần của sách, suy luận làm tinh thần của mình.

    Kể từ Đào Viên kết tình bằng hữu cùng nhau, từ thuở bần hàn cho đến khi vinh hoa phú quí sang trọng, Ngài vẫn một mực không hề thay đổi tâm đức bao giờ.

    Tinh thần của người ấy là tinh thần đứng riêng biệt một mình, một cảnh giới mà thôi. Thế gian khó tìm thấy một kiểu vở thứ hai nữa đặng. Tinh thần của Ngài có oai quyền đặc sắc. Ta thử tìm coi Ngài làm sao mà đặng như vậy?

    Nguơn linh của Ngài là Xích Long Tinh. Buổi nọ dân Bắc Hớn phạm Thiên điều, bị Ngọc Hư Cung phạt, hạn không cho mưa, đặng cho dân ấy phải đói. Dân làng biết mà cầu nguyện nơi Ngài cứu nạn.

    Ngài cũng thừa biết dân ấy bị Thiên điều hành pháp, nhưng vì lòng ái tuất thương sanh, không nỡ để dân chết đói, nên Ngài làm mưa. Ngọc Hư Cung bắt tội, sai Ngũ Lôi tru diệt. Ngài chạy trốn vào một cái chùa, nhờ ông thầy chùa lấy chuông úp lại. Vị sư căn dặn bổn đạo trong chùa đừng ai dở chuông cho đến ngày nào Ngài hết nạn. Chư Đạo trong chùa tọc mạch dở chuông ra xem coi vật gì. Thành thử Ngài phải chịu đầu kiếp, kiếp ấy là Hạng Võ. Hạng Võ thì ai cũng biết.

    Nếu ta quan sát trong Trọng Tương vấn Hớn, thì rõ tiền căn Hạng Võ, hậu kiếp Quan Công.

    Bởi Hớn Bái Công khi lập quốc rồi, nghe lời Lã Hậu, diệt công thần, giết Hàn Tín. Án ấy nằm dưới Phong Đô mấy đời mà không ai xử đặng.

    Buổi ấy có thầy Trọng Tương là học trò khó, nhà nghèo nhưng rất hiếu hạnh. Cha chết, Trọng Tương cất nhà mồ thờ cha mà ở. Thường hay buồn than thân trách phận, biết mình hữu tài mà vô dụng, nên viết một bài thi có ý than rằng: Thiên địa hữu tư, Thần minh bất công. (Trời Đất có lòng riêng, Thần minh không công bình), dụng ý trích điểm cái án nhà Hớn mà dưới Phong đô xử chưa có nổi. Vì vậy mà mắc tội phạm thượng, bị bắt hồn dẫn đến Phong đô, đem cho Thập Điện Diêm Vương vấn tội.

    Trọng Tương bình tỉnh trả lời rằng: Nếu cho tôi ngồi làm Thập Điện Diêm Vương, tôi sẽ xử án ấy cho mà coi.

    Thập Điện Diêm Vương bằng lòng.

    Ngài xử: Tiền căn báo hậu kiếp:

    Như Bành Việt, cho đi đầu thai làm Lưu Bị,

    Anh Bố làm Ngô Tôn Quyền,

    Hàn Tín làm Tào Tháo,

    Hạng Sư làm Nhan Lương, Hạng Bá làm Văn Xủ,

    Hạng Võ làm Quan Công . . .

    Ta thấy 6 tướng của Hạng Võ đem lòng phản bội, đầu nhà Hớn, rượt Hạng Võ đến bến Ô Giang, phải cắt đầu trao cho Đình trưởng. Chú của Hạng Võ là Hạng Bá, trở lại phản cháu, đã đầu lụy Hớn Bái Công, còn trở lại phạt Sở.

    Tiền căn hậu kiếp vay trả, quả báo y nhiên.

    Có một điều lạ là với Lữ Mông, oan nghiệt có khác.

    Tiền kiếp của Lữ Mông là ông thợ rèn, Quan Vân Trường đến mướn rèn Thanh long đao với một kiểu đặc biệt. Khi rèn xong, Ngài cầm ra sân thử đao, chẳng ngờ vô tình làm chết oan ông thợ rèn.(1)

    Ông thợ rèn sau đầu kiếp làm Lữ Mông. Cho nên buổi Ngài xuất thần qui vị, là trả cái ngày làm chết ông thợ rèn là Lữ Mông đầu kiếp, trả báo giết lại Ngài.

    Khi chơn linh của Ngài xuất ngoại, Châu Thương và Quan Bình cùng tự tử chết theo, ba người ấy bay giữa không trung, đi ngang ngôi chùa, kêu ông thầy chùa là Phổ Tịnh, đòi ông nọ trả đầu, ông bèn lấy cái quạt gõ trên cửa, tụng ba biến Vãng Sanh. Ngài hạ xuống tiếp đòi đầu nữa. Ông nọ nói rằng: Nhan Lương, Văn Xủ kia mới đòi đầu với ai? Ấy là tiền căn báo hậu kiếp thôi chớ.

    Đức Quan Thánh tỉnh ngộ, xin ông Phổ Tịnh cho Ngài ở đó đặng tu. Chơn linh Ngài ở nơi chùa đó mà hiển Thánh.

    Khi hiển Thánh rồi, Ngài trừ tà diệt quỉ, cứu độ sanh linh, và từ đó đến bây giờ, Ngài không tái kiếp lần nào nữa, duy dụng cái quyền hành thiêng liêng hành đạo mà thôi. Với quyền thiêng liêng ấy mà Ngài lập được Phật vị là Cái Thiên Cổ Phật, nhờ Vạn linh tôn trọng Ngài lên.

    Bần đạo dám quả quyết Ngài không phải là Thiên phong mà chính là người của Vạn linh bầu cử.

    Cho nên Đức Chí Tôn mở Đạo là cơ quan hiệp nhứt Vạn linh, để Đấng ấy là Tam Trấn Oai Nghiêm đặng làm quan Trạng sư cho Vạn linh đạt kiếp."

    (1) Theo Tam Quốc Ngoại Truyện, cái chết của ông thợ rèn xảy ra như sau: Khi Quan Võ ra sân múa thử đường đao, ông thợ rèn biết cây Thanh long đao nầy oai lực rất mạnh nên chạy núp trong bọng của một cây đại thọ gần đó. Quan Võ thử đao, muốn chém một vật nào đó xem đao thế nào, thấy có cây đại thọ ở gần liền múa đao chém thử, thân cây đại thọ bị đứt ngang ngã nhào, ông thợ rèn núp trong đó cũng bị đứt đầu chết theo.

    Đức Quan Thánh không thường giáng cơ dạy Đạo như Đức Lý Đại Tiên, thỉnh thoảng Ngài mới giáng cho một bài.

    Sau đây, chúng tôi xin chép lại bài giáng cơ của Ngài tại Minh Thiện Đàn, làng Phú Mỹ, Mỹ Tho, ngày 19-6-Tân Mùi (1931) với 4 câu thi đầu, khoán thủ là: CÁI THIÊN CỔ PHẬT:

    CÁI thế công danh thế quí oai,

    THIÊN tào kim phụng lịnh Cao Đài.

    CỔ kim độ chúng lao hà nại,

    PHẬT Thánh đạo tông tạo thế lai.

    Ta chào Giáo Hữu, cùng chư Nhu. Biết Lão không?

    - Quan Thánh Đại Đế. Nay chư Nhu cầu chi?

    Bạch: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    - Việc ấy chẳng cần nói.

    Chư nhu nhẹ tánh lắm âu lo,

    Lo vậy càng xa Thánh ý trò.

    Trò cứ một lòng vâng thửa lịnh,

    Lịnh trên nào để dễ gì cho.

    Vậy chư Nhu tuân mạng nghe! Giáo Hữu khá nghe, bởi tiên tri của Lý Đại Tiên dạy trước rằng, phải coi chừng Quỉ vương chen lấn vào mà thử thách chư Chức sắc Thiên ân, cùng cả Đạo lưỡng phái.

    Ta nói vậy khá kiếm hiểu, chớ chẳng khá ... ... trọn phận.

    THI:

    Huỡn vì việc Đạo ở nơi nào?

    Nhưng cũng tại lòng chẳng phải cao.

    Sung sướng càng quen càng giả dối,

    Gây nên oan nghiệt, tội dường bao!

    Nay Lão cũng vì cơ chuyển phục cũng cần, nên còn chưa tỏ cho cùng Thánh ý đặng. Vậy Lão xin chư Nhu ráng lo cùng Lão mà chấn hưng Minh Thiện chuyển phục các nơi nghe!

    Lão mong cho chư Nhu trọn lời phú thác.

    Lão mừng chư Nhu. Lão thăng.

    TNHT: Hai bài thi của Đức Quan Thánh trong TNHT:

    Hớn Thọ Đình Hầu

    Tiết nghĩa trung can Hớn đảnh xây,

    Phò lưu dựng Thục một lòng ngay.

    Kinh Châu Thất thủ nơi Thiên định,

    Khiến Hớn vận suy phải đổi thay.

    QUAN thành tái hiệp Hớn triều phong,

    THÁNH đức mạc vong hám thế trần.

    ĐẾ thất nhứt tâm trung khí dõng,

    Thanh y xích diện hảo vinh phong.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quan Thế Âm Bồ Tát

    觀世音菩薩

    Quan: Nhìn xem, hình tượng đã xem, ý thức. Thế: đời. Âm: tiếng nói, âm thanh.

    Quan Thế Âm Bồ Tát là một vị Bồ Tát nhận biết được tiếng kêu cứu của chúng sanh nơi cõi trần, Ngài liền hiện đến để cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh.

    Do đó, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát còn được gọi là: Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát, hay gọi vắt tắt là: Quan Âm Bồ Tát hay Quan Âm Như Lai.

    Ngài là một vị Nữ Phật, nhưng còn mang danh hiệu Bồ Tát là vì Ngài còn nhiệm vụ cứu độ chúng sanh.

    Phật giáo Tây Tạng gọi Ngài là Quán Thế Âm Phật, là vị Phật Nam, hộ trợ xứ Tây Tạng. Người Tây Tạng đều tin rằng, chính Ngài chuyển hóa vào thân Đức vua Đạt-Lai-Lạt-Ma cai trị xứ Tây Tạng, nên dân Tây Tạng xem Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma là vị Phật sống của họ.

    Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có một hiện thân gồm 11 cái mặt, 1000 cánh tay, 1000 con mắt, có 108 hồng danh. Ngài ngự tại Đền Potala nơi kinh đô xứ Lhassa, Tây Tạng.

    Ở Trung Hoa và Việt nam, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Nữ Phật do hai truyện tích: Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Diệu Thiện.

    Bất cứ hạng người nào trong chúng sanh, khi bị lâm nguy tánh mạng, như gặp phải tai nạn lửa cháy, tai nạn chìm tàu, bị cướp hãm hại, bị tra khảo, tù đày oan ức, v.v.... nếu thành tâm niệm danh hiệu của Ngài để cầu cứu thì Ngài liền hiện đến mà cứu giúp cho tai qua nạn khỏi.

    Trong Đạo Cao Đài, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Nữ Phật, đại diện Đức Phật Thích Ca, lãnh lịnh Đức Chí Tôn làm Đệ Nhị Trấn Oai Nghiêm, cầm quyền Phật giáo thời ĐĐTKPĐ.

    Trên tấm diềm phía trước Bát Quái Đài Tòa Thánh, tượng của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát ngự trên tòa sen, gần bìa phía tay mặt của Đức Lão Tử, thuộc bên Nữ phái.

    Nơi Thánh Tượng Thiên Nhãn thờ tại tư gia, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát ngự trên tòa sen, hình Ngài ở phía mặt của Thiên Nhãn, dưới hình Đức Thái Thượng Lão Quân.

    Trong LUẬT TAM THỂ, Bát Nương có giáng cơ dạy rằng: "Dưới quyền của Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương trông nom về Cơ Giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật trông nom về Cơ Phổ độ mà Quan Thế Âm Bồ Tát là Đấng cầm đầu. Quan Thế Âm Bồ Tát ngự tại Cung Nam Hải, ở An Nhàn Động, còn Cung Diêu Trì thì ở tại Tạo Hóa Thiên."

    Trong Truyện Tây Du Ký, hình ảnh của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát được mô tả như sau:

    " Bốn đức tròn viên mãn, Thân vàng tỏa sáng thông,

    Chuỗi ngọc biếc rủ cạnh, Vòng thơm đeo bên mình.

    Tóc mây uốn đen lánh, Đài thêu thắt ngang lưng,

    Bào trắng khuy ngọc bích, Mây lành che quẩn quanh.

    Quần gấm dây vàng óng, Khí đẹp phủ quanh thân,

    Lông mày vầng trăng khuyết, Mắt vì sao long lanh.

    Mặt ngọc tươi roi rói, Môi đỏ thắm tuyệt trần,

    Bình Cam lồ đầy ắp, Cắm cành dương liễu xanh,

    Độ chúng sanh thoát nạn, Rất từ bi hiền lành.

    Vậy nên: Giữ núi Thái sơn, Coi miền Nam hải,

    Độ người khổ ải, Nghìn Thánh nghìn thiêng,

    Muôn kêu muôn ứng.

    Lòng lan vui khóm trúc, Tánh huệ quí mây thơm.

    Đó là vị Chúa Từ bi ở Phổ Đà Sơn,

    Chính là Đức Quan Âm nơi An Nhàn Động."

    Theo các kinh sách truyền lại, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có 33 kiếp giáng trần, khi thì làm nam nhi, khi thì làm thiếu nữ, khi thì giáng sanh vào nơi cao sang quyền quí, khi thì vào nơi bần cùng nghèo khổ, khi thì làm Đạo sĩ, khi thì làm Tỳ Kheo, v.v....

    Có hai kiếp giáng trần làm phụ nữ của Ngài được người đời truyền tụng:

    - Đó là kiếp thứ 10: Ngài giáng trần làm nàng Thị Kính ở nước Cao Ly, tu hành đắc đạo, gọi là Quan Âm Thị Kính.

    - Kiếp giáng trần sau chót ở nước Ấn Độ là Công Chúa Diệu Thiện, cũng tu hành đắc đạo tại Phổ Đà Sơn ở Nam Hải, nên gọi là Quan Âm Diệu Thiện.

    Sau đây xin chép lại hai sự tích nổi tiếng nầy:

    Sự tích 1: QUAN ÂM THỊ KÍNH

    Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đã đầu thai xuống trần tu hành được 9 kiếp rồi, đến kiếp thứ 10, Ngài giáng sanh vào nhà họ Mãng ở nước Cao Ly (Triều Tiên). Hai ông bà họ Mãng đã lớn tuổi rồi, nhà lại giàu có, nhưng chưa có con. Ngày kia, hai vợ chồng lên chùa cầu tự, sau đó có thai và sanh được một gái, dung nghi đẹp đẽ, tướng mạo đoan trang, đặt tên là Thị Kính.

    Khi nàng Thị Kính đến tuổi cặp kê, gần đó có chàng Thiện Sĩ, con nhà họ Sùng, cậy mai mối đến hỏi cưới Thị Kính. Vợ chồng Mãng Ông thấy phải đôi vừa lứa nên bằng lòng gả Thị Kính cho Thiện Sĩ.

    Nàng Thị Kính rất buồn bã vì phải về ở nơi nhà chồng, không ai săn sóc cha mẹ. Cha mẹ nàng an ủi: Cha mẹ sanh con gái đến tuổi khôn lớn gả chồng, làm đẹp mày đẹp mặt cho cha mẹ là đủ rồi. Vả lại, nhà bên chồng của con cũng ở gần đây thì sự thăm viếng cũng thuận tiện.

    Từ khi về nhà chồng, Thị Kính giữ một mực tôn kính, phụng sự nhà chồng, trong ấm ngoài êm, ai nấy đều khen ngợi.

    Một ngày kia, nàng đang ngồi may vá, chàng Thiện Sĩ đọc sách mỏi mệt, đến gần chỗ nàng ngồi may nằm nghỉ và ngủ quên. Nàng thấy nơi càm chồng có mọc sợi râu bất lợi, nên sẵn cầm dao nhíp nơi tay, nàng đưa dao cắt đứt. Bỗng chàng Thiện Sĩ giựt mình thức dậy, thấy vợ đang cầm dao đưa ngay vào cổ mình, vụt la hoảng: Vợ tôi muốn giết tôi.

    Trong nhà vỡ lỡ, cha mẹ chồng chạy ra gạn hỏi, nàng cứ tình thiệt trình bày. Không ngờ cha mẹ chồng quá nghiêm khắc, bắt tội nàng mưu giết chồng, buộc Thiện Sĩ phải làm tờ thôi vợ, rồi cho mời Mãng Ông tới để lãnh con gái về.

    Nàng Thị Kính phải mang mối hàm oan, đành lạy từ cha mẹ chồng, theo Mãng Ông trở về nhà. Nàng buồn bã muôn phần, một là buồn cho số phận xui xẻo, hai là buồn cho cha mẹ phải mang điều phiền não. Nàng than rằng: Nếu nàng có anh em đông thì nàng đành quyên sinh để khỏi mang tiếng nhơ như thế. Nhưng vì nàng là con một, nên nàng không dám hủy mình, sợ mang tội bất hiếu, mà ở như thế nầy thì cũng rất khổ tâm, cho nên nàng quyết định xuất gia, lo tu hành cho đắc đạo, rồi sẽ trở về độ cha mẹ.

    Nàng lén cải trang thành một nam tử, rồi bỏ nhà trốn đi, đến một ngôi chùa nọ thì gặp Sư cụ đang thuyết pháp. Nàng thấy Sư cụ là bực chơn tu, nên xin Sư cụ cho thọ pháp qui y.

    Sư cụ gạn hỏi nhiều lần, vì Sư cụ thấy trang thiếu niên nầy còn trẻ quá mà sao lòng chán đời, đến nương nhờ cửa Phật, gột rửa lòng phàm. Sư cụ thấy lòng thành và chí quả quyết của người thiếu niên, nên cho thọ pháp qui y, đặt Pháp danh là Kỉnh Tâm, và nhận Kỉnh Tâm làm đệ tử.

    Sãi Kỉnh Tâm là gái giả trai, nên dung mạo đẹp đẽ, làm cho hàng tín nữ trầm trồ, nhứt là nàng Thị Mầu, con của một vị trưởng giả giàu có ở vùng ấy. Thị Mầu nhiều lần trêu ghẹo Sãi Kỉnh Tâm, đưa lời ong bướm, nhưng Kỉnh Tâm vẫn trơ trơ như không hay biết. Thị Mầu quá si mê Kỉnh Tâm, trong một lúc quá bồng bột, không kềm giữ được lòng dục, nàng tư thông với đứa tớ trai của nàng, khiến nàng có thai.

    Làng xã thấy nàng Thị Mầu không chồng mà có chửa, nên gọi nàng và cha mẹ nàng đến tra hỏi. Nàng khai rằng, nàng có tư tình với Sãi Kỉnh Tâm nên mới ra cớ sự, và xin làng rộng tình cho Kỉnh Tâm hoàn tục kết duyên với nàng.

    Trống mõ inh ỏi, cửa Thiền xưa nay êm lặng, phút chốc trở nên huyên náo, người làng đến đòi Sư Ông và Sãi Kỉnh Tâm ra làng dạy việc. Thầy trò không biết việc gì, cùng dắt nhau đi, đến nơi mới hay tự sự.

    Tá hỏa tâm thần, thầy hỏi trò có sao cứ khai thiệt. Kỉnh Tâm một mực kêu oan, chớ không dám nói điều chi khác nữa.

    Kỉnh Tâm bị làng đem ra tra tấn, đòn bộng, máu đổ thịt rơi, mấy lần bất tỉnh, nhưng Kỉnh Tâm vẫn một mực kêu oan. Sư Cụ động mối từ tâm, đứng ra xin bảo lãnh cho trò để đem về khuyên nhủ dạy răn.

    Thấy thế, Hương chức làng cũng niệm tình ưng thuận.

    Sau đó Sư Cụ bảo Kỉnh Tâm phải ra ngoài cổng Tam quan của chùa mà ở để tránh tiếng không tốt cho chùa.

    Thời gian trôi qua, Thị Mầu sanh được một đứa con trai, nàng liền bồng đứa hài nhi đến cổng chùa giao cho Sãi Kỉnh Tâm, nói rằng: Con của ngươi thì đem trả cho ngươi.

    Sãi KỉnhTâm đang tụng kinh, đứa hài nhi bị bỏ dưới đất, giãy giụa khóc la. KỉnhTâm nghe tiếng trẻ khóc, động mối từ tâm, chẳng cần dư luận, bèn ra ẵm đứa bé đem vào nuôi dưỡng.

    Sư Cụ trách Kỉnh Tâm: Trước kia, con nói con bị hàm oan, mà nay con lại nuôi đứa bé nầy, chính thầy đây cũng phải nghi ngờ nữa, huống chi là ai.

    Kỉnh Tâm bạch rằng: Bạch Sư phụ, khi xưa Sư phụ có dạy đệ tử rằng, cứu đặng một người thì phước đức hà sa. Đệ tử vâng theo lời thầy nên mới cứu mạng đứa bé nầy, chớ kỳ thật con không có ý chi hết.

    Đứa trẻ càng lớn càng giống Kỉnh Tâm như hệt, lại có vẻ thông minh. Khi đứa bé được 3 tuổi thì Kỉnh Tâm lâm trọng bịnh, biết mình sắp lìa trần theo Phật, nên Kỉnh Tâm ráng ngồi dậy viết hai bức thơ: một gởi cho Sư Cụ, hai gởi cha mẹ ruột, ông bà họ Mãng, rồi dặn kỹ hài nhi làm đúng theo lời dặn.

    Khi Sãi Kỉnh Tâm tắt hơi, đứa bé kêu cha khóc lóc một hồi, rồi nhớ lời cha dặn, liền đem thư vào đưa cho Sư Cụ .

    Sư Cụ mở thư ra, xem xong trong lòng rất bùi ngùi thương tiếc, sai vài vị Ni cô ra khám xét thi thể của Kỉnh Tâm, thì rõ ràng Kỉnh Tâm là gái giả trai.

    Tin Sãi Kỉnh Tâm là gái giả trai được truyền đi mau lẹ trong làng, làm mọi người hết sức ngạc nhiên.

    Hương Chức trong làng đòi Thị Mầu tới, buộc tội cáo gian, phạt phải chịu tổn phí về các cuộc tống táng và làm ma chay cho Kỉnh Tâm.

    Thị Mầu quá xấu hổ, bèn liều mình quyên sinh.

    Đến ngày an táng Sãi Kỉnh Tâm, tức là nàng Thị Kính, mọi người đều nhìn thấy Đức Phật ngự tòa sen hiện ra ở trên mây, rước hồn của nàng Thị Kính về cõi Tây phương.

    Chàng Thiện Sĩ rất ăn năn hối lỗi, nên phát nguyện tu hành. Tục truyền rằng, Đức Quan Âm Bồ Tát nhận thấy chàng Thiện Sĩ thật tâm hối lỗi và quyết chí tu hành, nên hiện đến cứu độ, đem về Nam Hải, hóa thành một con chim đậu một bên Đức Quan Âm Bồ Tát, mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề.

    Quan Âm Bồ Tát cũng cứu độ đứa con nuôi, con ruột của Thị Mầu, đem về Nam Hải, đứng hầu bên Ngài.

    Do đó, người ta họa hình Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đội mũ ni xanh, mặc áo tràng trắng, ngự trên tòa sen, bên tay mặt có con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, bên dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chấp tay đứng hầu.

    Đó là lấy theo sự tích Quan Âm Thị Kính.

    Sự tích 2: QUAN ÂM DIỆU THIỆN hay QUAN ÂM NAM HẢI.

    Theo sự khảo cứu của học giả De Groot, người Hòa Lan, kiếp chót của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là Công Chúa Diệu Thiện, con của vua Linh Ưu nước Hưng Lâm, một Tiểu quốc của Ấn Độ, ở về phía Đông Ấn Độ.

    Từ ngày nhà vua lên ngôi đến nay đã 40 năm mà Hoàng Hậu Bửu Đức không hạ sanh được một vị Hoàng tử nào. Nhà vua cùng Hoàng Hậu đi lên núi Huê sơn cầu tự. Trên núi Huê sơn có một vị Thần rất linh hiển, ai cầu chi được nấy. Cầu tự xong, ít lâu sau, Hoàng hậu có thai, sanh đặng một Công Chúa, đặt tên là Diệu Thanh. Sau đó lại tiếp tục có thai sanh thêm hai nàng Công Chúa nữa là: Diệu Âm và Diệu Thiện; không sanh được một Hoàng Tử nào.

    Ba nàng Công Chúa lớn lên, nhà vua định hôn cho hai chị của Diệu Thiện là Diệu Thanh và Diệu Âm, với hai vị quan trẻ tuổi và tài giỏi trong triều đình; còn nàng con gái út Diệu Thiện thì nhứt định không chịu lấy chồng, mà lại còn có ý xin phép vua cha và mẫu hậu xuất gia tu hành.

    Vua Linh Ưu tức giận, đày Diệu Thiện vào trong Hoa Viên lo việc gánh nước tưới hoa, làm các công việc cực khổ; đồng thời cho người khuyến dụ nàng bỏ ý định đi tu, nhưng nàng nhứt định cam chịu khổ chớ không từ bỏ ý định tu hành.

    Thấy vậy, Hoàng Hậu rất đau lòng, liền xin với vua Linh Ưu cho Diệu Thiện vào chùa Bạch Tước tu hành. Nhà vua chấp thuận, và ngầm ra lịnh cho các tăng ni trong chùa bắt Diệu Thiện làm các công việc nặng nhọc vất vả, để nàng không chịu nổi mà sớm trở về Cung nội.

    Diệu Thiện, tâm vẫn cương quyết, làm đầy đủ các bổn phận, dầu rất cực khổ, nhưng không một tiếng than, và luôn luôn lo việc tu hành.

    Nhà vua thấy cách nầy thất bại, nên nghĩ ra cách sai lính đốt chùa, để Diệu Thiện không còn nơi tu hành, phải trở về Cung nội. Quân lính phóng hỏa khắp bốn mặt, các tăng ni hốt hoảng lo chạy thoát thân, riêng DiệuThiện vẫn điềm tỉnh, nàng lâm râm cầu nguyện, rồi lấy cây trâm chích vào lưỡi, ngước mặt phun máu lên không, tức thì mây đen hiện ra, mưa tuôn xối xả, dập tắt hết các ngọn lửa. Quân lính đều hết sức kinh ngạc.

    Nhà vua không vì sự mầu nhiệm đó mà hối hận, lại bắt Diệu Thiện về triều, tổ chức các cuộc đàn hát vui chơi, để làm cho Diệu Thiện say mê, bỏ việc tu hành. Nhưng vua cha vẫn thất bại bởi Đạo tâm vững chắc của nàng con gái út.

    Nhà vua quá tức giận vì không thực hiện được ý mình, nên ra lịnh tối hậu cho nàng Diệu Thiện chọn một trong hai điều: một là phế việc tu hành, lo bề gia thất; hai là chịu xử trảm vì cãi lịnh vua cha.

    Nàng Diệu Thiện nhứt quyết chịu chết chớ không chịu bỏ việc tu hành.

    Thần Hoàng Bổn Cảnh vội vã bay về Trời tâu trình Thượng Đế, và Đức Thượng Đế ra lịnh cho Thần mau trở về bảo hộ nàng Diệu Thiện.

    Diệu Thiện bị đưa ra pháp trường hành quyết. Khi đao phủ đưa đao lên định chém xuống thì đao liền gãy nát; lại lấy cung tên đặng bắn cho chết thì khi mũi tên gần tới Diệu Thiện thì mũi tên bị gãy nát. Thấy không giết được Diệu Thiện bằng hai cách trên, kẻ hành quyết liền dùng hai bàn tay đến siết cổ Diệu Thiện.

    Bỗng đâu cuồng phong nổi lên, cát bay đá chạy, thiên ám địa hôn, một đạo hào quang bay đến bao phủ nàng Diệu Thiện, rồi Thần Hoàng hóa thành một con hổ lớn cõng Công Chúa Diệu Thiện chạy bay vào rừng. Các quan giám sát cuộc hành quyết bị một phen hoảng vía, trở về triều báo cáo lại với vua Linh Ưu tất cả các việc.

    Nhà vua không chút nao núng phán rằng: Công Chúa mang tội bất hiếu nên bị cọp tha mất xác cho đáng kiếp.

    Công Chúa Diệu Thiện bất tỉnh, hồn Công Chúa thấy một vị Sứ giả mặc áo xanh, tay cầm tờ giấy nói rằng: Diêm Vương mời nàng xuống Diêm Cung để xem các cảnh khổ não và những hình phạt nặng nề những linh hồn mà trong kiếp sanh đã làm nhiều điều ác độc.

    Thập Điện Diêm Vương cũng muốn nghe nàng thuyết pháp. Công Chúa vâng lịnh, dùng tâm từ bi và sức thần thông thuyết pháp cho 10 vua nghe, các tội hồn trong ngục cũng được nghe và liền giác ngộ. Trong phút chốc, chốn U Minh thành Lạc Cảnh, và các tội hồn đều được thoát ra khỏi ngục, đầu kiếp trở lại cõi trần.

    Thấy các cửa ngục đều trống trơn, Thập Điện Diêm Vương vội đưa hồn Diệu Thiện trở lại dương thế và cho nhập vào xác. Nàng tỉnh dậy, thấy mình đang nằm giữa rừng vắng vẻ, không biết phải làm sao và đi phương nào.

    Đức Phật Nhiên Đăng hiện ra trên mây, bảo nàng hãy đi ra biển Nam Hải, đến núi Phổ Đà, tu hành thêm một thời gian nữa thì sẽ đắc đạo, đạt vị Như Lai. Muốn đi đến đó, phải trải qua 3000 dặm đường. Đức Phật Nhiên Đăng lại tặng cho nàng một trái Đào Tiên, ăn vào không biết đói khát trọn năm mà còn được trường sanh bất lão.

    Nàng Diệu Thiện nhận lãnh và bái tạ Đức Phật, đoạn nàng tìm đường đi đến Nam Hải. Thái Bạch Kim Tinh hiện xuống, truyền cho Thần Hoàng biến ra Thần hổ, cõng Diệu Thiện đến Phổ Đà Sơn cho mau lẹ.

    Tại Phổ Đà Sơn, nàng Diệu Thiện tu thiền định trong 9 năm, đạo pháp đạt được cao siêu.

    Ngày 19 tháng 2 năm ấy, là ngày thành đạo của Công Chúa Diệu Thiện. Chư Thần,Thánh,Tiên, Phật, đến chúc mừng và xưng tụng vị Bồ Tát mới đắc đạo. Công Chúa ngự trên tòa sen, hào quang sáng lòa, xưng là Quan Thế Âm Bồ Tát.

    Lúc ấy chư Thánh muốn lựa một đồng tử để theo hầu Ngài, thì may đâu lúc đó có một vị tên là Hoàn Thiện Tài, mồ côi cha mẹ, phát nguyện tu hành, qui y Phật pháp, nhưng chưa chứng quả, nay nghe nơi Phổ Đà Sơn có một vị Bồ Tát mới đắc đạo, nên xin đến hầu Ngài.

    Trước khi chấp thuận lời thỉnh cầu ấy, Đức Quan Âm muốn thử xem tâm chí của Thiện Tài ra sao. Ngài truyền cho Sơn Thần Thổ Địa hóa làm ăn cướp đến bắt Ngài, Ngài giả bộ sợ sệt kêu la cầu cứu và ngã té xuống hố sâu. Thiện Tài chạy đến cứu thầy, và nhảy theo xuống hố. Thiện Tài thiệt mạng, chơn hồn liền xuất ra khỏi xác, đến hầu Đức Quan Thế Âm Bồ Tát và được thâu làm đệ tử.

    Về sau, Đức Quan Âm Bồ Tát thâu thêm Long Nữ, con gái của Đệ Tam Thái Tử của Long Vương Nam Hải, làm đệ tử.

    Nguyên ngày kia, Long Nữ hóa làm con cá đi dạo chơi trên mặt biển, chẳng may bị một ông chài bắt được. Ông đem cá ấy ra chợ bán. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát biết được, sai Thiện Tài đồng tử hóa ra một người thường, đi ra chợ hỏi mua con cá ấy, rồi đem ra biển Nam thả xuống.

    Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử cháu nội của mình, nên dạy Long Nữ đem một cục ngọc quí Dạ Minh Châu đến dâng Bồ Tát để Bồ Tát đọc sách ban đêm mà không cần đèn.

    Long Nữ đến dâng ngọc xong, lòng hết sức cảm phục Bồ Tát, nên xin qui y và được Bồ Tát thâu làm đệ tử.

    Từ ấy, Thiện Tài đồng Tử và Long Nữ luôn luôn theo bên cạnh để lo phụng sự Bồ Tát.

    Nhắc lại, từ khi vua Linh Ưu ra lịnh giết chết Diệu Thiện, và Diệu Thiện được Thần Hoàng cứu thoát, nhà vua mắc một chứng bịnh nan y vô cùng khổ sở, thân thể nhà vua bị lở loét ngoài da cùng mình, mùi hôi thối xông ra nồng nặc, nhức nhối đau đớn vô cùng. Nhiều danh y tới điều trị mà bịnh vẫn không thuyên giảm chút nào.

    Đức Quan Thế Âm Bồ Tát ở Nam Hải hay biết việc đó, nên Ngài hóa ra một vị sư già, đi đến kinh thành xin vào trị bịnh cho vua Linh Ưu.

    Sau khi xem mạch vua, vị sư già tâu: Bịnh của Bệ hạ do oan nghiệt nhập với chất độc cao lương mỹ vị và tửu nhục hằng ngày, nên phát sanh ra ngoài da thành bịnh nan y. Nếu muốn chữa lành thì phải có đôi mắt và đôi cánh tay của một người con thì mới chế thuốc được.

    Nghe vậy, nhà vua cho đòi hai Công chúa Diệu Thanh, Diệu Âm và hai Phò mã đến, rồi nhà vua lập lại lời nói của vị sư già, hỏi xem có đứa con nào dám hy sinh để trị bịnh cho vua cha không?

    Hai Công chúa cùng tâu: Xin Phụ vương đừng nghe lời ông sãi mầm nầy, bởi vì một người bị khoét đôi mắt và bị chặt hết hai tay thì dù có sống cũng chẳng ra chi. Chẳng lẽ cứu bịnh một người mà lại hủy hoại một người khác hay sao?

    Vua Linh Ưu chợt nhớ tới Công chúa út là Diệu Thiện, liền than: Nếu Diệu Thiện còn sống thì Trẫm ắt lành bịnh, vì Diệu Thiện sẽ hy sinh cho Trẫm.

    Vị Sư già liền tâu: Tâu Bệ hạ, Bần tăng biết rõ Công chúa Diệu Thiện hiện vẫn còn sống, ở tại núi Phổ Đà, biển Nam Hải. Xin Bệ hạ cho người đi đến đó, tìm Công chúa thì may ra chế được thuốc cho nhà vua. Bần tăng xin để thuốc lại đây, khi nào có đôi mắt và đôi tay của Diệu Thiện đem về thì nhập với thuốc nầy, nấu chung lại, rồi trong uống, ngoài thoa, bịnh của Bệ hạ sẽ hết ngay.

    Vị Sư già nói xong thì từ giã nhà vua trở về núi.

    Vua Linh Ưu rất mừng, liền cho sứ giả sắp đặt hành trang lên đường đi Nam Hải, tìm Công chúa Diệu Thiện. Khi sứ giả đến được Phổ Đà Sơn thì gặp một đồng tử bưng ra một cái mâm phủ vải trắng còn thấm máu tươi, trong đó có đôi mắt và đôi tay của Diệu Thiện, đem ra trao cho sứ giả và nói:

    Đây là đôi mắt và hai cánh tay của Công chúa Diệu Thiện, sứ giả hãy mau đem về chế thuốc trị bịnh cho vua.

    Hoàng Hậu khi nhìn thấy sứ giả đem đôi mắt và đôi tay của Diệu Thiện về, còn dính máu tươi thì òa lên khóc mướt. Thị vệ liền đem nấu với thuốc do vị Sư già để lại, cho nhà vua uống phân nữa, còn phân nữa để thoa lên khắp mình mẩy, phút chốc, thân thể nhà vua lành lặn như xưa, hết đau nhức, mà lại còn cảm thấy khỏe khoắn hơn trước.

    Vua Linh Ưu và Hoàng Hậu cảm mến ơn nghĩa của Diệu Thiện, nên quyết định đi ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình, gặp không biết bao nhiêu nguy hiểm, nhưng đều được Quan Âm Bồ Tát dùng thần thông cứu khỏi.

    Đến nơi, vua Linh Ưu và Hoàng Hậu thấy một vị Bồ Tát đang ngự trên tòa sen, nhưng mất cả hai cánh tay và hai con mắt. Vua biết đó là Công chúa Diệu Thiện, con của mình, nên vô cùng xúc động, nhớ lại mà ăn năn sám hối lỗi lầm, rồi đồng quì xuống cầu nguyện cùng Trời Phật xin cho Công chúa được lành lặn như xưa.

    Sự thành tâm cầu nguyện của vua và Hoàng Hậu có kết quả, Bồ Tát Diệu Thiện liền hiện hào quang với đầy đủ hai tay và hai mắt như lúc trước.

    Lúc ấy, vua và Hoàng Hậu đều giác ngộ, quyết rời bỏ điện ngọc ngai vàng, đem mình vào chốn Thiền môn, lo tu hành cầu giải thoát.

    Nguyên căn của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát:

    Đức Chí Tôn giáng cơ cho biết, nguyên căn của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là do Đức Từ Hàng Bồ Tát biến thân.

    TNHT. I. 31: "Người ta gọi Quan Âm là Nữ Phật Tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Đạo Nhơn biến thân. Từ Hàng lại sanh ra lúc Phong Thần đời nhà Thương." (Nhà Thương bên Tàu khởi đầu từ năm 1766 và dứt vào năm 1122 trước TL).

    Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo nhân ngày Vía Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, tại Đền Thánh, thời Tý ngày 19-2-Kỷ Sửu (1949), cũng có nói như sau:

    "Hôm nay là ngày vía của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Bần đạo đã thường nói, nơi cửa Thiêng liêng Hằng sống, Đức Quan Âm Bồ Tát là một Đấng ở trong gia tộc sang trọng và oai quyền hơn hết.

    Cái nguyên căn của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là do nơi pháp thân của Từ Hàng sản xuất....."

    Do đó, trong Kinh Đệ Bát Cửu có câu:

    Cung Tận Thức thần thông biến hóa,

    Phổ Đà Sơn giải quả Từ Hàng.

    Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, Đức Từ Hàng Bồ Tát chiết chơn linh giáng trần, tu hành nhiều kiếp, cuối cùng đắc đạo tại Phổ Đà Sơn, hiệu là Quan Thế Âm Bồ Tát.

    Trong con đường TLHS, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo cho biết, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vâng lịnh Đức Phật Vương Di-Lạc "chèo thuyền Bát Nhã Ngân hà độ sanh."

    "Bần đạo chỉ nói nơi xa xăm của chúng ta đi qua, chúng ta thấy hình trạng Bát Quái Đài, dưới chân có Thất Đầu Xà, và dưới mình của Thất Đầu Xà là Khổ hải, tức là cảnh trần của chúng ta đó vậy.

    Bên kia, có liên tiếp mật thiết vô một nẻo sông Ngân hà, rồi Bần đạo chỉ cho hiểu rằng, từ Khổ hải về cảnh Thiêng liêng Hằng sống phải đi ngang qua Ngân hà, có một chiếc Thuyền Bát Nhã của Đức Quan Âm Bồ Tát, vâng lịnh Đức Di-Lạc Vương Phật, chèo qua lại sông Ngân hà và Khổ hải đặng độ sanh thiên hạ."

    Hội Thánh của Đạo Cao Đài chọn ngày 19 tháng 2 âm lịch là ngày thành đạo của Công Chúa Diệu Thiện làm ngày Vía Kỷ niệm Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.

    Hằng năm, khi đến ngày nầy, tại Tòa Thánh và các Thánh Thất địa phương đều thiết lễ Đại Đàn cúng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, có Chức sắc thuyết đạo nhắc lại công đức và nhiệm vụ của Ngài trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

    KINH CỨU KHỔ là bài kinh đặc biệt cầu nguyện Đức Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn chúng sanh.

    Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có giáng cơ ban cho hai bài Kinh Thiên đạo là:

    · Kinh Hạ Huyệt

    · Kinh Khai Cửu, Đại Tường và Tiểu Tường.

    Trong TNHT, có đăng nhiều bài Thánh giáo của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.

    Mặt khác, trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, cũng có một bài Thánh giáo của Ngài, xin trích ra sau đây:

    Đêm mùng 2 tháng 11 năm Tân Mùi (1931).

    THI:

    Nhựt hoành nhị thập kiến giai thì,

    Lục nhựt đạo thành hiệp nhứt chi.

    Thứ kỷ thương nhơn tâm bất tại,

    Nhị nhơn thê mộc diệt nguyên qui.

    Giải rõ thi chiết tự:

    Nghe ta giải, khá chép mỗi hàng là 12 chữ:

    Hai mươi, chữ Nhựt, chữ Giai hiệp chữ Kiến là chữ: QUAN 觀

    Chữ Lục hiệp với chữ Nhứt và chữ Nhựt là chữ: ÂM 音

    Chữ Thứ mà bỏ bớt chữ Tâm còn lại chữ: NHƯ 如

    Chữ Mộc mà thêm vô 2 chữ Nhơn gọi là chữ: LAI 來

    DIỄN DỤ:

    Phàm làm người ở thế gian, một kiếp phù sanh, nghĩ lại chẳng bao lâu, tuy số định trăm năm chớ ít người bảy chục, còn e hai nẻo rủi may: Đường may là người nhờ kiếp làm quan trung quân ái quốc, giữ tánh thanh liêm, dạy dân lễ nghĩa, hồi đầu tỉnh ngộ lo tu, đời sau hưởng phước; còn gặp đường rủi là: làm quan chẳng dạ ngay vua, mạnh thế lộng quyền, hữu hoài soán nghịch chi tâm, chẳng giữ thanh liêm, hiếp dân, thâu hối lộ làm giàu, bức hiếp kẻ nghèo mà làm cự phú, chác sự oan gia trái chủ, thời phải bị sanh liễu hựu tử, tử liễu hựu sanh, luân hồi chẳng dứt.

    Nay gặp Trời ân xá lần ba, khuyên thiện nam tín nữ lo tu bồi đạo đức mà hưởng phước ngày sau, còn người mộ việc tu hành cũng thành Chánh quả.

    Nếu tu thời bỏ hết cuộc giàu sang vui sướng ở thế gian. Hãy biết thế gian, muôn việc đều giả, trăm kế cũng không.

    THI rằng:

    Khán đắc phù sanh nhứt thế KHÔNG,

    Điền viên sản nghiệp diệc giai KHÔNG.

    Thê nhi phụ tử chung ly biệt,

    Phú quí công danh tổng thị KHÔNG.

    Cổ ngữ vạn ban đô thị giả,

    Kim ngôn bá kế nhứt trường KHÔNG.

    Tiền tài thâu thập đa tân khổ,

    Lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng thủ KHÔNG.

    Quan Âm Như Lai

    Sau đây, xin chép lại một bài Thánh Ngôn của Đức Quan Âm Bồ Tát dạy Đạo cho nữ phái, giáng cơ đêm 3-8-Nhâm Thìn (dl 21-9-1952), trích trong Thánh Ngôn Sưu Tập:

    THI:

    QUAN nam diện duợt chí từ bi,

    ÂM đức cứu dân mới đắc thì.

    BỒ đạo giềng ba thân nữ độ,

    TÁT giang đức cảnh thế nên ghi.

    Hôm nay về cùng chư tín hữu phân ưu đạo hạnh, cũng nơi lòng ham mộ cửa từ bi, để mong sao thoát kiếp oan khiên nghiệp chướng, do bởi thế trần tạo nhiều khổ cảnh, mà chúng ta mãi vướng cuộc trầm luân, thì bao giờ rời được cái thân nhi nữ thường tình, nếu không sớm lo giải cứu thì sau nầy hối hận, đừng nói sao trễ bước.

    Công bấy nhiêu thì quả bấy nhiêu, chỉ có tâm nhiệt thành đạo hạnh thì cơ siêu thoát mới mong hưởng đặng.

    Còn một điểm luyến trần, khó mong cứu độ, chừng ấy ăn năn quá muộn, quí nhứt là sớm ngộ Tam Kỳ mà không lo tròn phận sự thì uổng một kiếp sanh vô lối. Dầu khổ dầu cực, cứ lăn lóc theo cơ Đạo để tạo nghiệp cảnh Hư Vô chi vị.

    Nếu Bần đạo nói tận cùng, thiện tín phải kinh tâm mà chớ. Thật sự cõi trần là nơi giam hãm con người vào vòng trụy lạc, lại là kiếp khổ tái sanh.

    Nếu không ngộ Tam Kỳ, ở Thiên cảnh ngó nơi trần thế, bắt ngậm ngùi cho thế. Chung quanh đều là ô trược để gạt và quyến rũ con người vào vòng tội lỗi, rồi phải chịu đọa luân hồi, khó mong nhìn thượng giới. Mãi bôn xu danh cùng lợi là điều buộc chặt linh hồn đó.

    Dưới thế gian mượn nước gội sầu, chớ toàn đều nhơ uế. Cả Thần Tiên rất sợ cảnh trần nầy lắm, chỉ mượn cớ để giác ngộ, nếu hữu duyên thì tránh được, hầu bước qua cảnh mới, tức là siêu linh đó.

    Bần đạo cám ơn và ban ơn cho. THĂNG.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

    ÐÐTKPÐ: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

     

  • Quan Trung

    關中

    Quan Trung là tên của một phần đất ở bên Tàu, giữa hai ải: phía Đông là ải Hàm Cốc, phía Tây là ải Lũng quan.

    Khi Hán Vương Lưu Bang tiêu diệt được Hạng Võ, thống nhứt nước Tàu, lên ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là Hán Cao Tổ, mở ra nhà Hán, đang còn phân vân chưa biết nên chọn Lạc Dương hay Quan Trung để đóng đô.

    Lưu Hầu Trương Lương tâu rằng:

    - Lạc Dương có những ưu thế hiểm trở nhưng đất hẹp không quá vài trăm dặm, ruộng xấu, lại phải đương đầu với kẻ địch bốn mặt, nên không phải là đất dụng võ tốt. Trái lại, Quan Trung, bên trái có Hào Sơn, Hàm Cốc quan, bên phải có đất Lũng, đất Thục, đồng ruộng phì nhiêu ngàn dặm, phía Nam có cửa ải đất Ba, đất Thục, phía Bắc có cái lợi là đồng cỏ đất Hồ, cả ba mặt đều có thiên nhiên hiểm trở phòng giữ, chỉ dùng mặt phía đông mà khống chế chư Hầu. Khi chư Hầu an ổn thì sông Hoàng Hà, Vị Thủy có thể dùng để chuyên chở của cải của thiên hạ đem về cấp cho kinh đô. Nếu chư Hầu có biến thì cứ thuận dòng sông đi xuống mà chinh phạt. Đó mới là thành vàng ngàn dặm, một kho báu Trời cho vậy.

    Hán Cao Tổ nghe Trương Lương nói như vậy thì hạp ý, chuẩn bị ngựa xe ngay hôm ấy đến Quan Trung lập kinh đô.

    TNHT:

    Yến Tử Hà xưa lúc vận cùng,

    Còn mang dép rách đến Quan Trung.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quan trường

    官場

    A: Mandarinate.

    P: Mandarinat.

    Quan: Chức quan, của công. Trường: nơi đông người đua chen danh lợi.

    Quan trường là giới quan lại, chỉ chung những người đang làm quan.

     

  • Quan viên

    官員

    A: Mandarin.

    P: Mandarin.

    Quan: Chức quan, của công. Viên: người, nhân viên.

    Quan viên là những người làm quan.

    TNHT: Chưa hết quan viên há hết chầu.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • QUÁN

    1. QUÁN: 貫 Thông suốt, xâu tiền.

    Td: Quán triệt.

    2. QUÁN: 冠 Đứng đầu, cao hơn hết.

    Td: Quán chúng.

    3. QUÁN: 盥 Rửa tay hay rửa mặt.

    Td: Quán tẩy.

    4. QUÁN: 觀 còn đọc QUAN: xem xét.

    Td: Quán tưởng.

     

  • Quán chúng

    冠眾

    A: Eminent.

    P: Éminent.

    Quán: Đứng đầu, cao hơn hết. Chúng: nhiều người.

    Quán chúng là đứng đầu nhiều người, tài giỏi vượt lên trên nhiều người.

     

  • Quán cổ tri kim

    貫古知今

    Quán: Thông suốt, xâu tiền. Cổ: xưa. Tri: biết. Kim: đời nay.

    Quán cổ tri kim là thông suốt việc đời xưa, biết rõ các việc đời nay. Đó là nhà bác học.

     

  • Quán tẩy

    盥洗

    A: To wash oneself.

    P: Se laver.

    Quán: Rửa tay hay rửa mặt. Tẩy: làm cho sạch.

    Quán tẩy là rửa tay hay rửa mặt cho sạch sẽ.

    Đây là câu xướng của Lễ sĩ trong nghi thức Tế Thần. Khi Lễ sĩ xướng "Quán tẩy", những vị đứng tế đến chỗ xối nước rửa tay hay rửa mặt cho thật sạch sẽ.

     

  • Quán triệt

    貫徹

    A: To penetrate.

    P: Pénétrer.

    Quán: Thông suốt, xâu tiền. Triệt: suốt tới.

    Quán triệt là thông suốt từ đầu đến cuối, hiểu rõ mọi lẽ.

     

  • Quán tưởng

    觀想

    Quán: xem xét. Tưởng: tư tưởng, tưởng nghĩ.

    Quán tưởng là dùng trí mà xem xét và tưởng niệm.

    Quán tưởng cũng là xem xét tư tưởng của mình, nó chánh hay tà, do đâu mà sanh ra và cái quả báo của nó thế nào.

    Tư tưởng của chúng sanh thì đảo điên. Tư tưởng của Phật thì chẳng còn điên đảo, hoàn toàn trong sạch, giải thoát.

    Quán tưởng niệm Phật: là ngồi im lặng một chỗ mà tưởng nghĩ đến công đức của Phật.

     

  • QUẢN

    QUẢN: 管 Coi sóc công việc, ống sáo, ống tròn.

    Td: Quản lý, Quản suất, Quản trị.

     

  • Quản Châu Đạo - Quản Tộc Đạo

    管洲道 - 管族道

    Quản: Coi sóc công việc, ống sáo, ống tròn. Châu Đạo: một tỉnh đạo, gồm các tín đồ cư ngụ trong một tỉnh. Tộc Đạo: một quận đạo, gồm các tín đồ cư ngụ trong một quận.

    Trong hệ thống tổ chức của Cơ Quan Phước Thiện, vị Chức sắc đứng đầu một Châu Đạo Phước Thiện thì gọi là Quản Châu Đạo Phước Thiện, vị Chức sắc đứng đầu một Tộc Đạo Phước Thiện thì gọi là Quản Tộc Đạo Phước Thiện.

    Bên Hành Chánh Đạo thì gọi: Khâm Châu Đạo và Đầu Tộc Đạo. Bên CQPT dùng chữ Quản để chỉ người đứng đầu, tránh trùng chữ với bên Hành Chánh Đạo.

    CQPT: Cơ Quan Phước Thiện.

     

  • Quản Châu Thành Thánh Địa - Quản Phận Đạo

    Quản: Coi sóc công việc, ống sáo, ống tròn. Châu Thành Thánh địa: vùng đất ngoại ô Tòa Thánh Tây Ninh được Hội Thánh thành lập để cho các tín đồ Cao Đài từ khắp nơi về cư ngụ và làm ăn sinh sống.

    Châu Thành Thánh địa được chia ra nhiều Phận Đạo, mỗi Phận Đạo có số tín đồ tương đương một Tộc Đạo.

    Vị Chức sắc đứng đầu Châu Thành Thánh địa về PT là một vị Đạo Nhơn gọi là Quản Châu Thành Thánh địa PT.

    Vị Chức sắc đứng đầu một Phận Đạo PT là một vị Giáo Thiện gọi là Quản Phận Đạo PT.

    Bên Hành Chánh Đạo thì gọi là: Khâm Thành Thánh địa và Đầu Phận Đạo.

    PT: Phước Thiện.

     

  • Quản lý

    管理

    A: To manage.

    P: Administrer.

    Quản: Coi sóc công việc, ống sáo, ống tròn. Lý: sắp đặt công việc.

    Quản lý là điều khiển và sắp đặt công việc trong một cơ quan, hay một tổ chức nhiều người.

     

  • Quản suất

    管率

    A: To direct.

    P: Diriger.

    Quản: Coi sóc công việc, ống sáo, ống tròn. Suất: cai quản toàn thể.

    Quản suất là cai quản toàn thể.

    Thánh ngôn: Quản suất càn khôn định cõi bờ.

    Quản suất tài chánh: cai quản về tiền bạc, quản lý việc thâu và xuất tiền bạc của một cơ quan.

    ĐLMD: Mỗi kỳ nhóm thường lệ, Thủ bổn phải lược thuật sự quản suất tài chánh cho rõ ràng.

    ÐLMD: Ðạo Luật năm Mậu Dần (1938).

     

  • Quản trị

    管治

    A: To administer.

    P: Administrer.

    Quản: Coi sóc công việc, ống sáo, ống tròn. Trị: sắp đặt cho yên.

    Quản trị là trông nom sắp đặt công việc trong một cơ quan hay một tổ chức gồm nhiều người.

    Hội Đồng Quản Trị hay Ban Quản Trị là một nhóm người có trách nhiệm sắp đặt công việc và nhân sự trong một cơ quan hay một tổ chức kinh doanh.

     

  • Quản Văn phòng

    管文房

    A: General secretary.

    P: Secretaire général.

    Quản: Coi sóc công việc, ống sáo, ống tròn. Văn phòng: phòng làm việc về giấy tờ, phụ trách sổ sách, công văn.

    Quản Văn phòng là một Chức sắc có nhiệm vụ quản lý các việc giấy tờ nơi Văn phòng của một cơ quan lớn trong Đạo.

    Dưới Quản Văn phòng là các Thơ ký và Đầu phòng văn khoa mục giúp việc.

    Trong Đạo dùng chữ Quản Văn phòng tương ứng với ngoài đời dùng chữ Chánh Văn phòng.

     

  • QUANG

    QUANG: 光 Sáng, rực rỡ, vẻ vang.

    Td:Quang âm, Quang lâm.

     

  • Quang âm

    光陰

    A: Light and shadow.

    P: Lumière et ombre: Temps.

    Quang: Sáng, rực rỡ, vẻ vang. Âm: bóng tối.

    Quang âm là sáng và tối, tức là ngày và đêm, chỉ thời gian trôi qua.

    TNHT: Nhặt thúc quang âm Xuân đã lụn.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quang lâm

    光臨

    Quang: Sáng, rực rỡ, vẻ vang. Lâm: tới.

    Quang lâm là tiếng dùng để tôn xưng người khách mà mình mời tới nhà mình.

     

  • Quang minh chánh đại

    光明正大

    A: Open and straightforward.

    P: Clair et droit.

    Quang: Sáng, rực rỡ, vẻ vang. Minh: sáng. Chánh: ngay thẳng. Đại: lớn.

    Quang minh chánh đại là rõ ràng ngay thẳng, không có gì lén lút hay mờ ám.

     

  • Quang tiền dụ hậu

    光前裕後

    Quang: Sáng, rực rỡ, vẻ vang. Tiền: trước. Dụ: giàu có, đầy đủ. Hậu: sau.

    Quang tiền dụ hậu là vẻ vang đời trước, giàu có đời sau.

    Ý nói: Làm cho vẻ vang sự nghiệp của ông cha đời trước, dành để phúc ấm lại cho con cháu đời sau được giàu có.

    Thành ngữ trên còn được nói là: Quang tiền thùy hậu: 光前垂後 Thùy: rủ xuống. Thùy ấm là phúc ấm để lại cho con cháu.

    Sách Luận Ngữ có viết rằng: "Quang tiền dụ hậu, kính kỳ sở tôn, ái kỳ sở thân, sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn, hiếu chi chí dã." Nghĩa là: Vẻ vang đời trước, giàu có đời sau, kính trọng người già, thương mến cha mẹ mình, thờ người chết như thờ người sống, thờ người mất cũng như thờ người còn, hiếu ấy rất mực vậy.

    TĐ ĐPHP: Mình phải quang tiền dụ hậu, lấy kim suy cổ, suy tầm những lý lẽ cao sâu.

    TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.

     

  • Quang tông diệu tổ

    光宗耀祖

    Quang: Sáng, rực rỡ, vẻ vang. Tông: dòng họ. Diệu: rực rỡ. Tổ: tổ tiên.

    Quang tông diệu tổ là làm rạng rỡ tổ tiên của dòng họ.

     

  • QUẢNG

    QUẢNG: 廣 Lớn, rộng, mở rộng, cái điện lớn.

    Td: Quảng đại, Quảng truyền.

     

  • Quảng đại

    廣大

    A: Vast, generous.

    P: Vaste, généreux.

    Quảng: Lớn, rộng, mở rộng, cái điện lớn. Đại: lớn.

    Quảng đại là rộng lớn, lòng dạ rộng rãi bao dung.

    KCS: Ơn Đông Nhạc Đế Quân quảng đại.

    KSH: Kinh Sám Hối.

     

  • Quảng Hàn Cung

    廣寒宮

    A: Palace of the moon.

    P: Palais de la lune.

    Quảng: Lớn, rộng, mở rộng, cái điện lớn. Hàn: lạnh. Cung: cung điện.

    Quảng Hàn Cung là cung điện của vị Thái Âm Tinh Quân ở trên mặt trăng.

     

  • Quảng khai

    廣開

    A: To enlarge.

    P: Élargir.

    Quảng: Lớn, rộng, mở rộng, cái điện lớn. Khai: mở ra.

    Quảng khai là mở rộng ra.

    PMCK: Quảng khai Thiên thượng tạo quyền Chí Công.

    PMCK: Phật Mẫu Chơn Kinh.

     

  • Quảng thi đại đức

    廣施大德

    Quảng: Lớn, rộng, mở rộng, cái điện lớn. Thi: thi hành, cũng đọc là Thí: giúp cho, bố thi. Bác thí: rộng giúp mọi người. Đại đức: cái đức lớn.

    Quảng thi, đồng nghĩa Bác thí: rộng giúp mọi người.

    Quảng thi đại đức là ban bố ơn đức lớn cho mọi người.

    SỚ VĂN: Ngưỡng nguyện Vô Trung Từ Phụ phát hạ hồng ân, quảng thi đại đức, bố hóa chư đệ tử trí não....

     

  • Quảng truyền Đạo Đức

    廣傳道德

    A: To propagate the book of Đạo Đức.

    P: Propager le livre de Đạo Đức.

    Quảng: Lớn, rộng, mở rộng, cái điện lớn. Truyền: trao lại cho người khác.

    Đạo Đức: sách Đạo Đức Kinh, là quyển sách do Đức Lão Tử viết ra, truyền lại cho Doãn Hỷ, dùng làm căn bản cho giáo lý của đạo Tiên.

    Quảng truyền Đạo Đức là truyền bá rộng rãi sách Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử.

    TG: Tử khí đông lai, quảng truyền Đạo Đức.

    TG: Tiên Giáo, Kinh Tiên Giáo.

     

  • Quạnh quẽ

    A: Desert, solitary.

    P: Désert, solitaire.

    Quạnh quẽ là vắng vẻ và yên lặng, gây cảm giác cô đơn, trống trải, buồn bã.

    Quạnh quẽ đồng nghĩa: Quạnh hiu.

    KTKVQL: Ngồi quạnh quẽ đèn tàn một bóng.

    KTKVQL: Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu.

     

  • Quạt nồng ấp lạnh

    A: Filial piety.

    P: Piété filiale.

    Quạt nồng: quạt cho hết nóng nực. Ấp lạnh: nằm úm cho hết lạnh.

    Quạt nồng ấp lạnh là khi nóng nực thì quạt cho mát, khi lạnh lẽo thì ấp cho ấm. Ý nói: con hiếu thảo chăm sóc cha mẹ.

    Trong Nhị thập tứ Hiếu, gương hiếu thảo thứ 6, Hoàng Hương thức khuya dậy sớm hầu cha rất hiếu thảo. Vào mùa đông, Hoàng Hương nằm ủ chăn chiếu để truyền hơi ấm cho cha khỏi lạnh, đến mùa hè thì quạt mùng gối cho cha được mát mẻ luôn. Nhờ vậy mà người cha sống thoải mái vui tươi, không biết có mùa đông hay mùa hè.

    Trong sách Lễ Ký có câu: Phàm vi nhân tử chi lễ, đông ôn nhi hạ sảnh, hôn định nhi thần tỉnh. Nghĩa là: Phàm theo lễ của kẻ làm con, mùa đông lo cho cha mẹ được ấm áp, mùa hè lo cho cha mẹ được mát mẻ, buổi tối chăm sóc cho cha mẹ ngủ yên, buổi sáng hỏi thăm cha mẹ có được khỏe không.

    Do đó, rút ra các thành ngữ: Đông ôn hạ sảnh, Hôn định thần tỉnh, Thần hôn, để chỉ con hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ.

     

  • QUÂN

    QUÂN: 君 Vua, người tài đức, anh với ý tôn kính.

    Td: Quân sư phụ, Quân tử.

     

  • Quân Sư Phụ

    君師父

    A: King, Teacher, Father.

    P: Roi, Maître, Père.

    Quân: Vua, người tài đức, anh với ý tôn kính. Sư: thầy dạy học. Phụ: cha.

    Quân, Sư, Phụ là ba bực mà người ta phải cung kính theo luân lý của Nho giáo.

    Trên hết là vua tượng trưng cho đất nước, kế đó là thầy dạy học, sau mới đến cha. Thời xưa, đặt sự quí trọng thầy hơn cha một bực. Cha mẹ thì sanh ra con, thầy thì dạy cho con hiểu biết đạo lý, khôn ngoàn tài giỏi hơn người.

    Ông Loan Cung Tử có viết rằng:

    Dân sanh ư tam sự chi như nhứt: Phụ sanh chi, Sư giáo chi, Quân tự chi. Phi phụ bất sanh, phi tự bất trưởng, phi giáo bất tri. Nghĩa là: Người ta sanh ra, có ba người phải thờ kính như một là: Cha sanh, thầy dạy, vua nuôi. Không cha thì không sanh, không nuôi thì không lớn, không dạy thì không biết.

    Do đó, Tam Cang của đạo Nho được giải là: Trung, Kính, Hiếu: Trung với nước, Kính bậc thầy, Hiếu với cha mẹ.

     

  • Quân thánh thần trung

    君聖臣忠

    Quân: Vua, người tài đức, anh với ý tôn kính. Thánh: sáng suốt như bực Thánh. Thần: bề tôi. Trung: ngay thẳng, trung thành.

    Quân thánh thần trung là vua sáng thì bề tôi trung.

    Ông Vương Lương nói: Quân thánh thần trung, Phụ từ tử hiếu. Gia bần tri hiếu tử, thế loạn thức trung thần.

    Nghĩa là: Vua sáng thì bề tôi trung, cha hiền thì con hiếu. Nhà nghèo mới biết con hiếu, đời loạn mới biết tôi trung.

     

  • Quân Thiên nhạc

    鈞天樂

    Quân: Cái bàn xoay của người thợ nặn đồ gốm, chỉ Đấng Tạo hóa. Thiên: Trời. Nhạc: khúc nhạc.

    Quân Thiên nhạc là khúc nhạc tấu ở cõi Trời. (Xem chi tiết nơi chữ: Nhạc tấu Quân Thiên, vần Nh).

     

  • Quân tử - Tiểu nhân

    君子 - 小人

    A: Superior man - Inferior man; Gentleman - Mean person.

    P: Homme supérieur - Homme inférieur; Bonnes gens - Petites gens.

    Quân: Vua, người tài đức, anh với ý tôn kính. Tử: người. Tiểu: thấp kém. Nhân: người.

    Quân tử là người có tài đức hơn người, có chí khí cao, có nhân cách và phẩm hạnh tốt đẹp.

    Tiểu nhân là người tầm thường thấp kém, thiếu đức thiếu tài, tâm tánh hẹp hòi, tham lam ích kỷ.

    Nho giáo luận rất kỹ về Quân tử và Tiểu nhân trong phần Hình Nhi Hạ Học.

    "Đã nói rằng, đạo của Khổng Tử là đạo người quân tử, cốt dạy người ta cho thành người có đức hạnh hoàn toàn và có nhân phẩm tôn quí, cho nên bao nhiêu sự dạy dỗ học tập của Khổng giáo đều chú cả vào sự gây thành người quân tử.

    Khổng giáo chia người trong xã hội ra hai hạng: Quân tử và Tiểu nhân. Quân tử là quí là hay; Tiểu nhân là tiện là dở.

    Vậy trước khi bàn đến các mục khác, thiết tưởng nên nói rõ tư cách của người quân tử và kẻ tiểu nhân khác nhau thế nào, thì sau mới hiểu rõ mọi ý nghĩa.

    Người ta sinh ra ở đời bao giờ cũng tựa như người hành khách, lúc nào cũng thấy có hai con đường giao nhau trước mắt. Có người biết chọn con đường thẳng mà đi thì được ung dung mà chóng đến nơi; có người thì đi con đường cong queo thành ra vất vả mà không đến nơi được. Con đường thẳng là con đường đạo đức nhân nghĩa, con đường cong queo là con đường gian ác quỉ quyệt. Đi con đường thẳng là người quân tử, có nhân cách hoàn toàn; đi con đường cong là kẻ tiểu nhân hèn hạ.

    Lúc đầu, chữ quân tử là nói người có địa vị tôn quí, mà chữ tiểu nhân là nói người thường, không có địa vị trong xã hội.

    Về sau dùng rộng nghĩa ra, gọi quân tử là người có đức hạnh tôn quí, và gọi tiểu nhân là người có chí khí hèn hạ.

    Vậy theo nghĩa rộng, quân tử thì dầu bần cùng khổ sở cũng là quân tử; mà tiểu nhân tuy có quyền tước giàu có cũng vẫn là tiểu nhân. Người đi học nho cũng vậy, có người là nho quân tử, có người là nho tiểu nhân. Khổng Tử bảo Tử Hạ: "Nhữ vi quân tử nho, vô vi tiểu nhân nho." Ngươi làm nho quân tử, không làm nho tiểu nhân.

    Nho quân tử là người học đạo Thánh hiền để sửa mình cho thành người có phẩm giá tôn quí, dầu bần cùng cũng không làm điều trái đạo; nho tiểu nhân là người mượn tiếng học đạo Thánh hiền để cầu danh cầu lợi, miệng nói đạo đức mà bụng nghĩ điều bất chánh bất nghĩa.

    Đức Khổng Tử phân biệt thái độ thế nào là quân tử, thế nào là tiểu nhân. Ngài nói:

    "Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt." Quân tử đạt về cái lý cao minh, tiểu nhân đạt về cái lý đê hạ. Quân tử bao giờ cũng theo Thiên lý, cho nên tâm tánh quang minh, biết điều gì càng ngày càng tinh thâm, làm việc gì càng ngày càng thuần thục, bởi vậy mới tiến lên chỗ cao minh. Tiểu nhân bao giờ cũng theo nhân dục, chí khí mờ tối, cứ bị vật dục sai khiến, biết cái gì thì càng ngày càng sai lầm, làm điều gì càng ngày càng càn rỡ, bởi vậy mới trụy lạc về đường đê hạ.

    "Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi." Quân tử hiểu rõ điều nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ điều lợi. Nghĩa là cái chánh đáng của Thiên lý; còn lợi là cái ham mê của nhân dục. Người quân tử hiểu sâu việc nghĩa nên dốc lòng làm việc nghĩa, kẻ tiểu nhân hiểu sâu điều lợi nên dốc lòng làm việc lợi mà quên việc nghĩa là trái lẽ.

    "Quân tử trung dung, tiểu nhân phản trung dung." Quân tử thì trung dung, tiểu nhân thì trái với trung dung. Quân tử hiểu suốt đến cái lẽ cao xa, rồi chọn cái vừa phải mà theo nên mới được trung dung; tiểu nhân chỉ biết cái tư lợi mà không biết cái lý cao xa nên chỉ làm những việc tầm thường, thành ra trái với trung dung.

    "Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái." Quân tử thư thái mà không kiêu căng, tiểu nhân kiêu căng mà không thư thái. Cái bụng của người quân tử thì chỉ theo cái lý tự nhiên nên lúc nào cũng an nhàn tự đắc, không có gì là căng kỷ ngạo vật. Cái bụng của kẻ tiểu nhân chỉ thích cái muốn của mình, nên khi đắc chí thì khoe khoang kiêu ngạo, không có thái độ thung dung như người quân tử.

    Quân tử theo Thiên lý nên lúc nào cũng thư thái, tiểu nhân bị vật dục sai khiến nên lúc nào cũng lo nghĩ để cầu danh cầu lợi nên suốt đời luôn luôn lo lắng.

    "Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ." Quân tử cố giữ mình lúc khốn cùng, tiểu nhân lúc khốn cùng thì làm bậy.

    "Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác, tiểu nhân phản thị." Quân tử gây thành cái hay cho người, không gây thành cái ác cho người, tiểu nhân không thế.

    Lòng người quân tử vốn hậu, mà cái sở hiếu chỉ ở sự thiện, cho nên thấy ai làm điều hay thì khuyến khích cho người ta làm hay hơn nữa, hoặc thấy ai làm điều ác thì can ngăn, không để cho người ta làm thành điều ác được. Lòng kẻ tiểu nhân vốn bạc, mà cái sở hiếu chỉ ở điều ác, cho nên thấy ai làm điều ác thì xui khiến để thành ra ác, hoặc thấy ai làm điều thiện thì ghen ghét, tìm cách ngăn trở.

    Đức Khổng Tử chia nhơn loại ra làm hai hạng như thế: quân tử và tiểu nhân. Quân tử chủ ở sự theo Thiên lý để làm điều công chánh; tiểu nhân chủ ở sự theo tư dục để làm những điều tà khúc. Một đường thì làm cho tôn phẩm giá của mình lên, một đường thì làm cho hạ phẩm giá của mình xuống. Ai muốn theo đường nào, cũng tùy ở cái chí của mình cả.

    "Quân tử ưu đạo bất ưu bần." Quân tử lo đạo, không lo nghèo. Người quân tử lấy sự học đạo làm gốc, cho nên chỉ lo đạt tới đạo chớ không lo cho có lợi lộc hay không có lợi lộc.

    "Quân tử kiến cơ nhi tác." Quân tử xem cơ màu mà động tác. Cơ là phần tinh vi nảy ra lúc sắp động. Người quân tử phải xem xét suy nghĩ cho cẩn thận để lúc làm việc gì thì biết rõ cái cơ có làm được hay không. Có cái cơ làm được mà không làm là dại dột, chưa có cái cơ làm được mà làm cũng là dại dột, không phải là người quân tử.

    Học làm quân tử thì phải thành thật, không bao giờ tự dối mình mà làm hại cái biết của mình.

    Muốn là quân tử thì phải giữ đủ cả phần chất phác ở trong và phần văn hoa ở ngoài, đừng để chênh lệch phần nào. Chất phác mà quá hơn văn vẻ là thô lỗ, văn vẻ mà quá hơn chất phác là hào nháng bề ngoài, trong không có gì là thực. Bởi vậy, văn và chất phải đều nhau, đừng để bên nọ hơn bên kia thì mới thật là người quân tử.

    Cái phẩm giá của bậc quân tử hoàn toàn cao quí như thế, sự học rộng như thế, không thể lấy cái tư cách của hạng người tầm thường chỉ bo bo những việc thiển cận mà ví được. Vậy người đi học, muốn theo đạo của người quântử thì cần phải cố gắng nhiều lắm vậy." (Theo Nho giáo của Trần Trọng Kim)

    Trong ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO có giải về Quân tử và Tiểu nhân, chép ra như sau:

    "Quân tử là người tài đức xuất chúng, phẩm hạnh nhân cách hoàn toàn, tánh tình cao thượng. Người quân tử bao giờ cũng ung dung thư thái, ưa làm sự phải điều hay, thuận Thiên lý lưu hành, đem chơn đạo mà khuyên đời tùng lương cải ác, tấm lòng bao giờ cũng quảng đại, vô vi thanh tịnh, không phóng túng bôn chôn, mà để lòng dục khiến sai, uốn bẻ đến phải bước lầm vào nẻo quấy. Mỗi việc đều xét suy đáo để, tính trước lo xa, thương người ích chúng, ham nghĩa ưa nhân, chuộng trung mến chánh, bao giờ cũng vẫn tùy thời quyền biến mà giữ cho được hai chữ Trung Dung, chớ không thái quá không bất cập, dầu gặp cảnh ngộ nào thì tâm chí cũng cứ an vui, không để thất tình loạn động, vì người quân tử là thực vô cầu bảo, cư bất cầu an, kia mà.

    Cái đức của người quân tử thường như nước vậy, nghĩa là châu lưu chảy khắp tứ phương, gặp tròn gặp méo, gặp dài gặp vuông, nước cũng chiều theo được hết, lại nước cứ từ cao chảy xuôi xuống thấp, nên người quân tử luống chịu hạ mình cho vừa lòng tất cả nhơn sanh. Tuy nước cứ tìm chỗ thấp, cứ chiều theo khuông, cứ mềm với chúng, mà đến chừng ai muốn cho nó tiêu mòn sứt mẻ là chẳng làm sao hề hấn đến được lấy chút mảy may gì nó bao giờ.

    Người quân tử theo đời mà chẳng nhiễm đời, chiều người mà chẳng bợ người, tùy tục mà không đắm tục, cứ giữ tánh tình thanh bạch, tâm chí cao siêu, dẫu ai dầm cũng chẳng phai, ai giũa cũng chẳng mòn, nên bã lợi danh mồi chung đỉnh có bao giờ trêu nhử được!

    Còn đứa tiểu nhân lại bỏ nghĩa theo lợi, lấy vạy cầu danh, tâm tà tánh độc, nết kiêu, chí hèn, nói tắt một lời là mỗi mỗi đều trái hẳn với người quân tử như trắng với đen, như trời với vực.

    Tuy nhiên, người quân tử càng trốn cái danh mà danh càng rạng tỏ, càng chiều với thế mà thế vẫn tôn sùng; còn đứa tiểu nhơn lại càng chuộng cái danh mà danh càng nhơ nhớp, càng kiêu với thế mà thế vẫn thị khinh.

    Như vậy mà sao hạnh quân tử ít người làm, còn thói tiểu nhơn lại nhiều kẻ học? Thiệt rất buồn cho nhơn loại biết bao!"

    "Chán đời tìm chốn tịnh an,

    Học theo quân tử, lánh đàng tiểu nhơn.

    Khó khăn chí vẫn đâu sờn,

    Hữu duyên nghe lọt tiếng đờn vô vi."

     

  • QUẦN

    1. QUẦN: 群 Nhiều người tụ họp đông đảo.

    Td: Quần linh, Quần sanh.

    2. QUẦN: 裙 Cái quần để mặc.

    Td: Quần hồng, Quần thoa.

     

  • Quần chơn

    群眞

    A: All the Saints.

    P: Tous les Saints.

    Quần: Nhiều người tụ họp đông đảo. Chơn: Chân: những vị tu hành đắc đạo thành bực Thánh hay bực Tiên, gọi là Chơn nhơn.

    Quần chơn là các vị Thánh, Tiên.

    TG: Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng.

    TG: Tiên Giáo, Kinh Tiên Giáo.

     

  • Quần hồng

    裙紅

    A: Rose trousers.

    P: Pantalon rouge.

    Quần: Cái quần để mặc. Hồng: màu đỏ.

    Quần hồng là cái quần màu đỏ, chỉ đàn bà con gái.

    Khi xưa, ở bên Tàu, những nhà giàu thường cho con gái mặc quần màu đỏ.

    NTTP: Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.

    NTTP: Nữ Trung Tùng Phận.

     

  • Quần linh

    群靈

    A: All the spirits.

    P: Tous les esprits.

    Quần: Nhiều người tụ họp đông đảo. Linh: chơn linh, linh hồn.

    Quần linh là tất cả các chơn linh trong CKVT, đồng nghĩa: Vạn linh.

    KNHTĐ: Vô vi nhi dịch sử quần linh.

    KNHTÐ: Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

     

  • Quần nhi

    群兒

    A: All the children.

    P: Tous les enfants.

    Quần: Nhiều người tụ họp đông đảo. Nhi: con trẻ.

    Quần nhi là đám con trẻ.

    Toàn thể nhơn loại đều là con trẻ của Đức Phật Mẫu.

    PMCK: Sanh quang dưỡng dục quần nhi.

    PMCK: Phật Mẫu Chơn Kinh.

     

  • Quần sanh

    群生

    A: All the living beings.

    P: Tous les êtres vivants.

    Quần: Nhiều người tụ họp đông đảo. Sanh: sống.

    Quần sanh tất cả các loài sanh vật, đồng nghĩa: Chúng sanh. Quần sanh gồm: Thảo mộc, Thú cầm, Nhơn loại.

    Thông thường, Quần sanh hay Chúng sanh có nghĩa hẹp là nhơn loại, nhơn sanh.

    KNHTĐ: Hóa dục quần sanh, thống ngự vạn vật.

    KNHTÐ: Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

     

  • Quần Thánh

    群聖

    A: All the Saints.

    P: Tous les Saints.

    Quần: Nhiều người tụ họp đông đảo. Thánh: các Đấng thiêng liêng từ bực Thánh đổ lên, tức là các vị Thánh, Tiên, Phật.

    Quần Thánh là tất cả các vị: Thánh, Tiên. Phật.

    TG: Đức hoán Hư linh, pháp siêu quần Thánh.

    TG: Tiên Giáo, Kinh Tiên Giáo.

     

  • Quần thoa (Quần xoa)

    裙釵

    A: Trousers and brooch: Woman.

    P: Jupe et épingle à cheuveux: Femme.

    Quần: Cái quần để mặc. Thoa: còn đọc Xoa: trâm cài tóc của phụ nữ.

    Quần thoa hay Quần xoa là cái quần và cây trâm cài tóc, chỉ đàn bà con gái, giới phụ nữ.

    TNHT: ... .... và cho nở mày khách quần thoa.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quật hạ

    A: To stoop.

    P: S' abaisser.

    Quật: co xấp lại. Hạ: thấp xuống.

    Quật hạ là chìu lòn, hạ mình xuống.(Từ ngữ xưa)

    CG PCT: Nên phải có hạnh đức mới biết an phận mình mà chịu phần lòn cúi, quật hạ đặng.

    CG PCT: Chú Giải Pháp Chánh Truyền.

     

  • QUẾ

    QUẾ: 桂 Cây quế, loại cây quí, có mùi thơm nồng, dùng làm thuốc.

    Td: Quế hòe, Quế hương, Quế thọ.

     

  • Quế hòe

    桂槐

    Quế: Cây quế, loại cây quí, có mùi thơm nồng, dùng làm thuốc. Hòe: cây hòe.

    Quế hòe là cây quế và cây hòe, chỉ đứa con tài giỏi nối chí ông cha làm nên danh phận rỡ ràng.

    Điển tích: 1. Đậu Võ Quân đời Tống, làm quan đến chức Gián Nghị Đại phu, gia pháp nhà ông có một thời làm mẫu mực cho dân chúng. Trong khi ông làm quan, hiền sĩ khắp nơi được ông cất nhắc và bổ nhiệm rất nhiều. Ông có năm người con trai đều học rất giỏi, thi đậu và đều được vua trọng dụng, bổ làm quan. Người đời khen là Yên Sơn Ngũ quế: Đất Yên Sơn có năm cây quế.

    Do đó, Tống Sử có chép rằng: "Tống Đậu quân hữu tế nhơn âm công, sinh ngũ tử câu chiết quế." Nghĩa là: đời Tống có ông họ Đậu, có lòng cứu giúp người, tạo được âm chất và công đức, nên sanh năm người con đều bẻ cành quế.

    Ông Phùng Đạo làm bài thơ mừng Đậu Võ Quân, có câu: "Linh xuân nhất châu lão, đan quế ngũ chi phương." Nghĩa là: Linh xuân một gốc cây già, năm cành quế đỏ thơm.

    Điển tích: 2. Ông Vương Hộ, người đời Tống, ra làm quan, văn chương nổi tiếng một thời. Ông có trồng ba cây hòe trước sân nhà, nói: "Con cháu ta tất có người làm đến Tam Công, ba cây hòe nầy là nêu chí của ta." Về sau, con thứ của ông tên là Vương Đán làm quan đến chức Tể Tướng, nên dân chúng gọi là "Tam hòe Vương thị" (ba cây hòe nhà họ Vương).

     

  • Quế Hương nội điện

    桂香內殿

    Quế: Cây quế, loại cây quí, có mùi thơm nồng, dùng làm thuốc. Hương: thơm. Nội điện: ở trong cung điện.

    Quế Hương nội điện là ở trong điện Quế Hương nơi cõi thiêng liêng, là nơi ngự của Đức Khổng Thánh Tiên Sư.

     

  • Quế thọ

    桂樹

    A: Cinnamon tree.

    P: Le cannelier.

    Quế: Cây quế, loại cây quí, có mùi thơm nồng, dùng làm thuốc. Thọ: Thụ: cây.

    Quế thọ hay Quế thụ là cây quế, chỉ người học thức tài giỏi, có đức hạnh, làm quan hiển đạt. (Xem chữ: Quế hòe).

    NG: Bồi quế thọ ư, âm chất chi điền.

    NG: Nho Giáo, Kinh Nho Giáo.

     

  • Quế tử lan tôn

    桂子蘭孫

    Quế: Cây quế, loại cây quí, có mùi thơm nồng, dùng làm thuốc. Tử: con. Lan: hoa lan rất đẹp và rất thơm, chỉ người hiền lương đạo đức. Tôn: cháu.

    Quế tử là con như cây quế, ý nói con cái học hành đỗ đạt, làm quan vinh hiển.

    Lan tôn là cháu thì như hoa lan, hiền lương đạo đức.

    Quế tử lan tôn là nói con cháu đều hiển đạt và cao quí.

     

  • QUI

    1. QUI: 歸 Trở về, chịu về theo.

    Td: Qui căn, Qui hồi, Qui Thiên.

    2. QUI: 規 Cây thước tròn, khuôn phép, mưu tính.

    Td: Qui điều, Qui củ, Qui mô.

    3. QUI: 龜 Con rùa.

    Td: Qui linh, Qui mao.

     

  • Qui căn

    歸根

    A: To return to the origin.

    P: Retourner à l'origine.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Căn: gốc rễ.

    Qui căn là trở về nguồn cội.

    KTL: Đất biến hình tự thử qui căn.

    KTL: Kinh Tẫn Liệm.

     

  • Qui chánh cải tà

    歸正改邪

    A: To return to the right and to give up wrong way.

    P: Revenir au bien et quitter la voie du mal.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Chánh: ngay thẳng. Cải: sửa đổi. Tà: cong vạy.

    Qui chánh cải tà là trở lại đường ngay, sửa đổi điều tà vạy, tức là từ bỏ con đường tà để trở về con đường chánh.

    TNHT: Thầy vì đức háo sanh nên thâu thập nhiều đứa lương tâm chưa chánh đáng là Thánh ý để cho chúng nó qui chánh cải tà.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Qui cổ

    歸古

    A: To return to the antiquity.

    P: Retourner à l'antiquité.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Cổ: xưa.

    Qui cổ là trở lại thời xưa, tức là trở lại thời kỳ Thánh đức mà con người còn giữ được bổn tánh thuần lương.

     

  • Qui củ chuẩn thằng

    規矩準繩

    A: The norm.

    P: La norme.

    Qui: Cây thước tròn, khuôn phép, mưu tính. Củ: cây thước để vẽ hình vuông. Chuẩn: mực thước. Thằng: sợi dây.

    Qui củ là cây thước tròn và cây thước vuông, chỉ cách thức làm việc có kế hoạch, chương trình.

    Chuẩn thằng là sợi dây dùng làm mức chuẩn.

    Qui củ chuẩn thằng là cái mực thước và cách thức để theo đó mà làm cho khỏi sai phạm.

     

  • Qui điền

    歸田

    A: To return to the field.

    P: Retourner à la rizière.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Điền: ruộng.

    Qui điền là trở về đồng ruộng.

    Ý nói: Thôi làm quan, trở về với đồng ruộng, sống nhàn tản với gió mát trăng thanh mà tu dưỡng tinh thần.

     

  • Qui điều

    規條

    A: The rule.

    P: Le règlement.

    Qui: Cây thước tròn, khuôn phép, mưu tính. Điều: cành nhỏ.

    Qui điều là những điều khoản lập ra để tổ chức một cơ quan, làm khuôn phép buộc mọi người trong một cơ quan tuân theo, để cho cơ quan làm việc điều hòa, tiến triển tốt đẹp.

    Qui Điều của Ban Thế Đạo là một bản văn do Hội Thánh HTĐ lập ra qui định việc thành lập Ban Thế Đạo, các phẩm Chức sắc, hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, lễ phục, việc cầu phong, thăng thưởng, và kỷ luật. Bản Qui Điều nầy được dâng lên Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông phê chuẩn.

    HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

     

  • Qui hồi

    歸回

    A: To return to.

    P: Retourner à.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Hồi: trở về.

    Qui hồi là trở về chốn cũ.

    Qui hồi cố quốc: Trở về nước cũ sau thời gian lưu lạc nơi nước ngoài.

    Qui hồi cựu vị: Trở về ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng.

     

  • Qui liễu

    歸了

    A: To die.

    P: Mourir.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Liễu: xong việc.

    Qui liễu là xong việc thì trở về.

    Ý nói: chết (nơi cõi trần).

    Đạo Cao Đài quan niệm nguồn gốc của con người là nơi cõi thiêng liêng. Khi con người đầu kiếp xuống cõi trần là để thi hành một nhiệm vụ do các Đấng giao phó. Khi làm xong nhiệm vụ thì linh hồn rời bỏ thể xác trở về cõi thiêng liêng phục lịnh.

    Cho nên, qui liễu là chỉ sự chết nơi cõi trần, linh hồn xuất ra khỏi thể xác để trở về cõi thiêng liêng.

     

  • Qui linh

    龜齡

    A: Longevity.

    P: Longévité.

    Qui: Con rùa. Linh: tuổi. (không có nghĩa là linh thiêng)

    Qui linh là tuổi rùa, ý nói sống lâu, trường thọ, bởi vì rùa là con vật sống rất lâu năm.

     

  • Qui mạng (Qui mệnh)

    歸命(皈命)

    Qui: Trở về, chịu về theo. Mạng: Mệnh: lịnh của cấp trên.

    Chữ Qui 皈, cùng nghĩa với chữ Qui 歸, nhưng được thông dụng trong Phật giáo nhiều hơn.

    Qui mạng hay Qui mệnh là đem mình về vâng chịu nghe theo mệnh lệnh của Phật.

    Chí tâm qui mạng lễ là cúng lạy với tất cả ý chí và tâm hồn, đem mình về vâng chịu nghe theo.

     

  • Qui mao

    龜毛

    Qui: Con rùa. Mao: lông.

    Qui mao là lông rùa.

    Thường nói: Thố giác qui mao: sừng thỏ lông rùa, để chỉ những việc không thể có hay không thể xảy ra, giống như không bao giờ thỏ có sừng hay rùa có lông.

     

  • Qui mô

    規模

    A: Norm, grandiose.

    P: Norme, grandiose.

    Qui: Cây thước tròn, khuôn phép, mưu tính. Mô: cái khuôn.

    Qui mô là cây thước và cái khuôn để theo, tức là phép tắc và mẫu mực.

    Qui mô có một nghĩa thông dụng là: lớn lao, kích thước, độ lớn, trình độ phát triển.

     

  • Qui nguyên phục nhứt

    歸原復一

    A: To return to the origin and to unify.

    P: Retourner à l'origine et unifier.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Nguyên: gốc. Phục: trở lại. Nhứt: một.

    Qui nguyên: trở về gốc. Phục nhứt: hiệp trở lại làm một.

    Qui nguyên là nói tắt thành ngữ: Tam giáo qui nguyên, nghĩa là đem ba nền tôn giáo (Phật, Lão, Nho) trở về gốc, gốc đó là Thượng Đế, trở về gốc là trở về cùng Thượng Đế. (Xem: Tam giáo qui nguyên, vần T)

    Phục nhứt là nói tắt thành ngữ: Ngũ Chi phục nhứt, nghĩa là đem Ngũ Chi Đại Đạo (Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo) hiệp lại làm một, một đó là Thiên đạo (đạo Trời), tức là Đạo Cao Đài. (Xem: Ngũ Chi phục nhứt, vần Ng)

    TNHT: Nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Qui nhứt

    歸一

    A: The unification.

    P: L' unification.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Nhứt: một.

    Qui nhứt là đem trở về một mối.

    Nhứt bổn tán vạn thù, Vạn thù qui nhứt bổn: Một gốc phân ra muôn hình khác nhau, muôn hình khác nhau hiệp trở về một gốc.

    Cơ qui nhứt là cơ quan có nhiệm vụ qui hiệp tất cả về một mối. Cơ qui nhứt ở đây cũng có nghĩa là cơ quan qui nguyên Tam giáo và Phục nhứt Ngũ chi.

    CG PCT: Mà ba đạo vẫn khác nhau, nội dung ngoại dung đều khác hẳn, luật lệ vốn không đồng, chỉ nhờ Tân Luật làm cơ qui nhứt.

    CG PCT: Chú Giải Pháp Chánh Truyền.

     

  • Qui phàm

    歸凡

    A: To materialize.

    P: Matérialiser.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Phàm: thấp kém, chỉ cõi trần.

    Qui phàm là trở nên tầm thường thấp kém, không còn cao siêu như trước nữa.

    PCT: Thầy đã nói Ngũ Chi Đại Đạo bị qui phàm là vì khi trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo mà làm ra phàm giáo.

    PCT: Pháp Chánh Truyền.

     

  • Qui Thiên

    歸天

    A: To return to the Heaven.

    P: Retourner au Ciel.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Thiên: Trời.

    Qui Thiên là trở về Trời, ý nói sự chết của thể xác nơi cõi trần, linh hồn xuất ra trở về cùng Đức Chí Tôn.

    Trong Đạo Cao Đài ít khi dùng chữ CHẾT, bởi vì sự chết chỉ có đối với thể xác, chớ linh hồn không bao giờ chết, và thường dùng chữ QUI: trở về, với triết lý là nguồn gốc của con người ở cõi Trời, cõi trần chỉ là cõi tạm để con người đến đây học hỏi và tiến hóa một thời gian, rồi phải trở về cõi Trời.

    Do đó, Đạo Cao Đài thường dùng các từ ngữ sau đây để chỉ sự chết: Qui liễu, Qui Thiên, Qui vị, Qui Tiên, nhưng khi dùng có sự phân biệt theo phẩm cấp Chức sắc:

    ■ Đối với Đức Giáo Tông và Đức Hộ Pháp chết thì dùng chữ Qui Thiên.

    ■ Đối với Chức sắc hàng Tiên vị (Chưởng Pháp, Đầu Sư, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, Thập nhị Thời Quân) thì dùng chữ: Qui Tiên hay Đăng Tiên.

    ■ Đối với Chức sắc hàng Thánh trở xuống đến tín đồ thì dùng chữ: Qui vị hay Qui liễu.

     

  • Qui Thiên lương

    歸天良

    Qui: Trở về, chịu về theo. Thiên: Trời. Lương: tốt lành.

    Thiên lương là cái phần tốt đẹp và lành mà Trời ban cho mỗi người để con người biết được điều hay lẽ phải. Cái Thiên lương ấy chính là cái tánh bổn thiện, cái Lương tri Lương năng, mà Phật giáo gọi là Phật tánh.

    Cái Thiên lương ấy vốn lành và sáng suốt, nhưng vì Lục dục Thất tình che lấp làm cho nó lu lờ, khiến cho con người làm nhiều điều sái quấy, gian ác, trái với Thiên lý.

    Qui Thiên lương là đem cái Thiên lương ấy trở về làm chủ con người, làm chủ Lục dục Thất tình, để con người từ bỏ đường ác, trở lại đường lành, làm điều hay sự phải, hợp với Thiên lý.

    PMCK: Qui Thiên lương quyết sách vận trù.

    PMCK: Phật Mẫu Chơn Kinh.

     

  • Qui Thiện - Trường Qui Thiện

    Trường Qui Thiện

    1. Quá trình thành lập Trường Qui Thiện

    2. Nội luật của Trường Qui Thiện

    3. Vấn đề treo Bạch Kỳ

    4. Rước Long Vị Đức Phật Mẫu tại Qui Thiện Đường về thờ nơi Báo Ân Từ trong Nội Ô Tòa Thánh

    5. Tờ cung chiêu

    6. Cất Đền Thờ Phật Mẫu tại Trường Qui Thiện

    7. Hội Yến Diêu Trì Cung lần đầu tiên tại Trường Qui Thiện

    8. Thánh Lịnh minh định Trường Qui Thiện

    9. Ông Đinh Công Trứ bị ám sát chết

    10. Ranh giới ruộng đất của Trường Qui Thiện

    11. Chuyển Trường Qui Thiện thành Địa Linh Động - Trí Giác Cung

    Tóm tắt về Trường Qui Thiện

    12. Tiểu sử Ông Đinh Công Trứ (1903-1949)


     

    歸善 - 場歸善

    A: To return to the good - The school of Qui Thiện.

    P: Retourner au bien - L' école de Qui Thiện.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Thiện: lành. Trường: trường học.

    Qui Thiện là trở về điều lành, từ bỏ con đường ác để trở về con đường lành.

    Trường Qui Thiện là một cơ sở đạo do ông Giáo Thiện Đinh Công Trứ lập ra trong Châu Thành Thánh địa, qui tụ một số tín đồ về đây để học lành và làm lành.

    Ngày 26-10-Canh Dần (1950), Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ tại Qui Thiện Đường của Trường Qui Thiện, Phò loan: Luật Sự Hưởng và Nhung, dạy về Qui Thiện, chép ra sau đây:

    "Đây là lần thứ nhứt, Bần đạo mới được dịp để đôi lời chỉ giáo cùng các em nam nữ nơi Trường Qui Thiện.

    Bần đạo chẳng cần luận chi cao xa hơn nữa, chỉ nhắc cho các em nhớ đến hai chữ QUI THIỆN thì đủ.

    Qui tức là họp lại thành đoàn thể, Thiện là những kẻ biết ham chuộng sự hiền lương, hoặc những người thức thời biết chê đời mến đạo. Vậy thì Qui Thiện Đường là nơi qui tụ những người đã nhận thức sự thật về giá trị và sở hành của mình, đã có sẵn một tâm hồn cao thượng, nên biết rõ cái mất cái còn, hoặc biết cân phân điều hơn lẽ thiệt. Bần đạo cũng khen các em đó.

    Ở đời mọi sự đều giả, cho đến mảnh thân của chúng ta đây cũng không tồn tại. Nếu ai đã mê theo đường danh bể hoạn hiện thời, thì tất nhiên họ chuốc lấy sự mất ở ngày mai. Chỉ những kẻ đi tìm sự mất ở đời mà sớm dắt mình vào khuôn khổ vị tha, bản tâm luôn luôn sẵn sàng phụng sự cho người đời: kẻ nghèo, kẻ đau, kẻ yếu, mới còn được mảy may mà thôi.

    Giá trị cùng chăng, quí trọng cùng chăng là do nơi hành động phi phàm cùng không phi phàm đó thôi."....

    Đức Cao Thượng Phẩm lại giáng cơ tại Qui Thiện Đường ngày 25-1-Tân Mão 1951, trích ra sau đây:

    "Toàn trong nước Sở chỉ có dùng người lành mà làm của quí báu trong nước, huống chi chư Hiền hữu qui tụ cả chúng sanh đem về một mối lành thì còn ai là người tàn bạo, gian tham xảo trá.

    Nội một danh từ ấy mà thực hành cho chu đáo thì không còn phương nào hay hơn trong buổi tạo thời cải thế nầy."

    Đức Phạm Hộ Pháp, trong buổi lễ Khánh Thành Tân Dân Thị ngày 29-11-Giáp Ngọ (dl 23-12-1954), có bài Phủ Dụ, xin trích ra một đoạn sau đây:

    "Buổi sơ sinh Đạo yếu ớt bạc nhược, ngu dại dốt nát thế nào, các quỉ quyền giục cho thiên hạ dùng cả năng lực quyền hành của mình toan tiêu diệt cho kỳ được Đạo. Họ đồ mưu chia rẽ làm cho Thánh thể của Đức Chí Tôn phải ly tán, anh nghịch em, em bất hòa với anh, cả nền đạo chinh nghiêng đảo ngược.

    Gánh một chức vụ Hộ Pháp, cầm cả luật pháp của Đạo, không lẽ Qua ngồi ngó đặng chịu tội cùng Đức Chí Tôn. Qua phải tìm phương giải quyết, đem chữ Hòa của Đức Chí Tôn để làm căn bản. Bởi cớ mới sản xuất ra Phạm Môn và Qui Thiện.

    Thiên hạ nói Qua lấy tộc của Qua là Phạm lập cái đảng phái cho họ Phạm. Thiên hạ đã tuyên truyền dối trá ấy đặng đánh đổ uy tín của Qua như thế nào, Qua chưa hề trả lời cho ai biết hết, dầu cho quyền hành buổi nọ rất mạnh mẽ, đòi phen đem đến luật hình, mà chính mình Qua cũng chưa nói cho hoàn toàn biết nghĩa lý Phạm Môn là gì?

    Hôm nay mấy em biết chưa? Có lẽ phần nhiều mấy em biết: Phạm là Phật. Phạm môn là cửa Phật. Nói rõ hơn hết là cửa tu chơn của Đạo, cửa bảo thủ chơn truyền của Đức Chí Tôn.

    Còn Qui Thiện là thế nào? Qua chưa nói rõ cho thiệt tướng. Thiên hạ đều hung bạo, vì lẽ hung bạo làm cho anh nghịch em, em hận anh, trong cửa Đạo không có vẻ chi là đạo hết. Lập Trường Qui Thiện là cốt yếu đem lòng lành của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiệp nhứt cùng nhau làm một đặng bảo thủ chơn truyền của Đạo.

    Buổi đầu tiên, nó sản xuất tại Mỹ Tho, Qua lập Khổ Hiền Trang. Mấy em biết hai chữ Khổ Hiền ý định của Qua như thế nào không?

    Trong 72 anh em chung sức cùng nhau mà làm đầu Trường Minh Thiện lúc ấy là Đinh Công Trứ, vẫn là một trong đó vậy. Nhờ cả sự giáo hóa của Qua, cái nghĩa lý tối yếu tối trọng của chơn pháp Đức Chí Tôn, Qua giao lại cho nó để làm thế nào cho thiên hạ hết thống khổ về tinh thần lẫn vật chất. Sự biết Đạo của Đinh Công Trứ là vậy.

    Tỷ cũng như Qua, đã bị các nạn nhân lực lượng các quyền đạo lẫn quyền đời buổi nọ tuyên truyền dối trá thế nào thì Đinh Công Trứ cũng bị nạn ấy. Thiên hạ nói nó cũng như Qua, lo đời hơn lo Đạo.

    Mấy em ôi! Trong buổi phong ba bão táp, nhơn loại ở trong sông mê bể khổ, một con thuyền Bát Nhã chưa tạo thành đặng độ rỗi họ. Ít nữa mấy em cùng Qua cố gắng tạo cho thành đặng cứu vớt khổ não của họ đặng bấy nhiêu thì hay bấy nhiêu. Thiên hạ thấy mấy em khổ não, cái khổ ấy nó đã làm cho Qua đổ biết bao giọt huyết lệ từ khi mới biết Đạo."

    Tôn chỉ, mục đích của Trường Qui Thiện được gói ghém trong hai đôi liễn do ông Đinh Công Trứ đặt ra, cẩn nơi cổng chánh và nơi Đền Thờ Phật Mẫu trong Trường Qui Thiện:

    Đôi liễn thứ nhứt:

    歸良生行正敎守秘法執中貫一

    善給孤能養老保眞傳大道期三

    Qui lương sanh hành chánh giáo thủ bí pháp chấp trung quán nhứt,

    Thiện cấp cô năng dưỡng lão bảo chơn truyền Đại Đạo Kỳ Tam.

    Nghĩa là:

    Qui tụ những người lành, tu hành theo Chánh giáo, bảo thủ bí pháp Chấp trung Quán nhứt của Nho giáo,

    Làm việc phước thiện, cấp dưỡng trẻ mồ côi, nuôi người già, bảo thủ chơn truyền của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

    Đôi liễn thứ nhì:

    歸聖德住天良敬重賢人親孤獨

    善存心行正道掃除怪敎解冤愆

    Qui Thánh đức trụ Thiên lương kính trọng hiền nhơn thân cô độc,

    Thiện tồn tâm hành Chánh đạo tảo trừ quái giáo giải oan khiên.

    Nghĩa là:

    Qui tụ Thánh đức, giữ vững Thiên lương, kính trọng người hiền và gần gũi người cô độc,

    Giữ cái tâm lành, tu hành theo Chánh đạo, diệt trừ cho sạch hết các tà giáo, cởi bỏ hết các oan khiên.

    I. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP TRƯỜNG QUI THIỆN:

    Trong buổi lễ an vị Đức Phật Mẫu tại Điện Thờ Phật Mẫu nơi Địa Linh Động Trí Giác Cung, ngày 19-12-Bính Ngọ (dl 29-1-1967), Ngài Hiền Nhơn Lê Văn Trung (lúc đó còn ở phẩm Chơn Nhơn) Chưởng quản CQPT, đọc bài Phủ Dụ, trong đó có lược thuật lại về nguyên thủy của Trường Qui Thiện mà chính Ngài và ông Đinh Công Trứ là hai người được Đức Lý Giáo Tông chọn làm hướng đạo trong buổi đầu tiên.

    Xin chép Bài Phủ Dụ nầy ra sau đây:

    " Kính bạch Hội Thánh Lưỡng Đài,

    Kính . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    Hôm nay buổi Lễ An Vị Đức Phật Mẫu tại Đền Thờ Địa Linh Động, được đông đủ Hội Thánh Lưỡng Đài và toàn đạo dự chứng. Trước sự trang nghiêm, long trọng khiến tâm tư tôi phấn khởi hân hoan pha lẫn với sự bùi ngùi cảm xúc.

    Tôi xin mạn phép được lược thuật lại về nguyên thủy của Trường Qui Thiện.

    Hồi tưởng lại hơn 40 năm qua, khi Đức Hộ Pháp và Ngài Bảo Văn Pháp Quân vâng lịnh Đức Phật Mẫu đến làng Phú Mỹ (MỹTho) để tìm nơi lập Thánh Thất đặt danh là Khổ Hiền Trang.

    Thánh Thất nầy do ông Giáo Sư Thượng Minh Thanh làm chủ, nên Đức Lý giáng cơ cho bài thi như vầy:

    KHỔ thà cam chịu chớ đừng than,

    HIỀN hảo cùng nhau mới vẹn toàn.

    TRANG điểm ngọc lành cho đáng giá,

    Dồi mài chí thiện Thượng Minh Thanh.

    Cũng trong năm nầy (Đinh Mão 1927), vào ngày 14 tháng 10, ông Đinh Công Trứ chấp cơ, các Đấng giáng dạy lập Minh Thiện Đàn tại tư gia của ông.

    Lúc ấy tôi còn mơ hồ, chưa quyết đoán, đến ngày 15 tháng 7 năm Mậu Thìn (1928) mới gia nhập.

    Từ đây tôi hiệp với ông Đinh Công Trứ là cố Giám Đốc Trường Qui Thiện lập một đàn cơ dưới sự dạy bảo của Đức Lý. Ông Đinh Công Trứ được Đức Ngài chỉ định lãnh phận sự Chủ Trường.

    Qua năm Kỷ Tỵ (1929) ngày 3 tháng giêng, Đức Quan Thánh Đế Quân giáng dạy lập thêm Đồng Nghĩa Đường tại tư gia của tôi và nơi đây để cho nhơn sanh nhập vào Minh Thiện, không bao lâu, tổng số lên đến 3400 vị.

    Ngày 15-2-1929, Đức Lý giáng lập Luật Điều Chánh Pháp, về Nội Luật có 12 vị Kiểm duợt, tôi xin lập lại danh sách y như Đức Lý đã tuyển chọn 12 vị như sau:

    Phước, Phò, Phú, Mậu, Chì, Chương,

    Ninh, Chánh, An, Phuông, Giao, Duơn.

    Hiệp với những vị Phò loan và dạy lập 36 Ty. Mỗi Ty 12 Sở Lương điền và Công nghệ, trong các tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc, Mỹ Tho, Tân An, v.v....

    Sau do đàn cơ ngày 15-2-1929, Đức Lý giáng dạy, tôi xin trích đại ý như sau: "Minh Thiện tức là Qui Thiện, mà Qui Thiện là Phạm Môn, và dạy phải hiệp với Đức Hộ Pháp."

    Thừa hành lịnh dạy, khi tôi về Tòa Thánh tạo ngôi nhà Phú Mỹ 7 căn 2 chái, lại nghe Đức Hộ Pháp vì sự nội biến tại Tòa Thánh, Đức Ngài xuống ở Thủ Đức.

    Theo lời Đức Hộ Pháp tường thuật lại, khi Ngài ở đó chấp bút, Bát Nương về mách bảo rằng: Nơi Phú Mỹ có Long Tuyền Kiếm và xin Đức Ngài đến lấy phép ếm ấy tại Thảo Đường thì dân tộc Việt Nam mới phát triển đặng.

    Vì năm 1914 giặc Âu Châu bùng nổ, Tàu còn sai một người Tiều Châu độ 65 tuổi qua ếm một lần nữa. (Chuyện trên đây ở địa phương nầy hàng lão thành nhiều người hiểu biết).

    Khi Đức Ngài định đi có cảm tác một bài thi, tôi xin đọc lại nguyên văn:

    Thắng khổ người tu vẫn để lòng,

    Vì thua, Thủ Đức phải đành dông.

    Buồn chưa đứng đặng trên đầu rắn,

    Vui đến phân minh chí khí rồng.

    Nào kể vịt gà chê tiếng phụng,

    Chỉ phiền hồng hộc ghét đuôi công.

    Mở kho giúp đói đây trề miệng,

    Ta quảy hồng ân rải giáp vòng.

    Kế tôi đến rước Đức Ngài xuống ở Thánh Thất Phú Mỹ nhằm ngày 25-2-1929, Đức Lý giáng cơ giao Minh Thiện Đàn cho Đức Ngài. Đức Ngài cho mời những người nhập Minh Thiện Đàn lại Thánh Thất, hành pháp cân thần kỳ nầy là 93 vị nhưng chỉ lựa đặng 24 vị.

    Đức Ngài cho gom tất cả gia đình của những người được chấm thọ Đào viên pháp, nhằm đêm 28 rạng 29 tháng 2 năm Kỷ Tỵ (1929), kế được tin Đức Cao Thượng Phẩm bịnh nặng nên Đức Ngài về lúc 11 giờ trưa ngày 29, qua mùng 1 tháng 3 thì Đức Cao Thượng Phẩm đăng Tiên.

    Khi an táng xong, sau một thời gian là ngày 10-6-Kỷ Tỵ, Đức Hộ Pháp, Đức Quyền Giáo Tông và ông Giáo Sư Latapie đến Khổ Hiền Trang kỳ nhì, hành pháp trục thần liên tiếp ba đêm cho 647 vị và chọn được 48 vị, còn bao nhiêu Đức Ngài dạy làm âm chất thêm, cộng hai lần là 72 vị.

    Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp trở về Tòa Thánh, sau một thời gian lưu lại để chứng Giấy Thông Hành cho đi hành thiện làm chức tín đồ, xem công quả hành đạo các tỉnh: Mỹ Tho, Bạc Liêu, Rạch Giá, Sóc Trăng, tờ nầy số 12 đề ngày 13-11-1931.

    Tôi và cố Giám Đốc Trường Đinh Công Trứ phải lưu hành, còn 70 vị kia chỉ thi hành phận sự ở địa phương mình.

    Nhờ kỳ đi hành thiện nầy mà số người đạo ký tên theo về Tòa Thánh được 17 400 vị ở các tỉnh miền Tây.

    Theo Thánh ý của Đức Ngài, còn định hành pháp cân thần kỳ ba, nhưng đến ngày 28-3-1930, Ngài đến có hai vị nữ phái (vì lâu nên không nhớ tên) và 4 vị nam phái là quí ông:

    Tri, Chiêu, Lư, với Lễ Sanh Thái Chia Thanh, hiện là Giáo Sư Tần Nhơn, Ngài đến lần nầy là để đi tìm Long Tuyền Kiếm, do Bát Nương mách bảo với Đức Ngài khi trước.

    Đức Ngài chấp bút được Đức Lỗ Ban giáng dạy hãy đến Thảo Đường (Thảo Đường nầy là chỗ do Đức Phật Mẫu chỉ dạy khẩn một lô đất hoang 60 mẫu và khai một con kinh, về các năm trước là năm 1928, theo bài thi của Đức Phật Mẫu, nguyên văn như sau:

    Thảo Đường phước địa ngộ tòng hoa,

    Lục ức dư niên võ trụ hòa.

    Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp,

    Thế đăng Bồng đảo định âu ca.

    Khi đến con kinh mà ông Đinh Công Trứ và tôi với bổn đạo khai thác, có tạo một ngôi nhà tạm bằng cây lá thờ Đức Chí Tôn. Đức Lỗ Ban dạy: bước về phía Tây Nam 280 bước thì lấy được cái ếm.

    Lấy xong, Đức Ngài giải nghĩa liền rằng: Long Tuyền kiếm nầy là do đời Tàu cai trị Việt Nam ếm để sát hại nhơn tài, dầu có Trạng ra đời cũng bị vớt đứt (là yểu mạng). Đức Lỗ Ban cho Bần đạo biết có hai vị Thần ở giữ đây, chỉ dành riêng cho kẻ mạng Trời đến lấy món ếm nầy mà thôi.

    Năm 1943, tôi hợp tác ở Sài Gòn để lo cơ chuyển thế thì nơi đây ông Đinh Công Trứ lập Qui Thiện Đường, dựng lên cây cờ trắng.

    Tạo nên sự nghiệp nầy, ông đã phải trải qua bao nỗi truân chuyên gian khổ. Khi ông qui Tiên, Đức Hộ Pháp phán dạy tôi đến lãnh trách nhiệm Chưởng quản do Thánh Lịnh số 84/HPĐ ngày 18 tháng 8 năm Kỷ Sửu (1949).

    Tôi được thấy Thánh Lịnh số 139 của Đức Hộ Pháp cho nơi đây giữ phận tín đồ lo việc tu chơn mà thôi.

    Trong lúc thi hành phận sự, có lịnh Đức Hộ Pháp dạy mở một phiên họp có đông đủ Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện và Quân Đội để mở rộng ra Phận Đạo Đệ bát và phân ra một vùng đất 1040 mẫu tây, bao trùm luôn đất tư chủ, để khai mở cơ sở cho Qui Thiện. Vi Bằng nầy do Ngài Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Non Thanh chủ tọa và đề ngày 12-11-Canh Dần (1950).

    Trải một thời gian qua, anh chị em nơi đây lắng dịu âm thầm, tu dưỡng trí lự, kiện toàn một động lực hòa ái tương liên theo Thập điều Giới răn, để gìn giữ một di sản của bậc tiền bối dày công xây dựng. Với sự tu chỉnh lại đẹp đẽ nguy nga như ngày hôm nay, anh chị em đã phải gánh chịu biết bao sự thăng trầm lao nhọc mới đoạt được một kết quả hiện tại.

    Với Thánh ý của Đức Hộ Pháp do đàn cơ đêm 10-12-Bính Ngọ, tôi cầu mong được sự nâng đỡ dìu dắt của Hội Thánh Lưỡng Đài cho anh chị em nơi đây đi đến chí thiện chí mỹ, làm rạng danh Thầy, sáng danh Hội Thánh, thì sự quí hóa nầy không lấy chi đề cập cho bằng.

    Nay nhân ngày Lễ An Vị Đức Phật Mẫu, tôi nhận thấy có bổn phận thuyết minh những điều mà tôi được hân hạnh hiểu biết ít nhiều về lai lịch của Minh Thiện Đàn, mà Minh Thiện Đàn chính là căn cội của sự sáng lập Trường Qui Thiện hôm nay.

    Vậy nếu có điều cho sơ sót, nhờ lượng trên Hội Thánh cùng quí vị cao minh niệm tình chỉ giáo.

    Trước khi dứt lời, tôi xin thành thật bái tạ Hội Thánh Lưỡng Đài đã đến chứng giám, làm cho cuộc lễ tăng thêm phần tôn nghiêm long trọng, và một lần nữa, ngưỡng mong Hội Thánh từ bi dìu dắt cho toàn thể anh chị em tín đồ nơi đây lập công bồi đức cho xứng phận đến ngày về thiêng liêng vị đúng theo tinh thần Thánh Lịnh số 139 do Đức Hộ Pháp ban cho Trường Qui Thiện trong buổi Đức Ngài còn tại tiền.

    Nay kính.

    Chưởng quản Phước Thiện

    Chơn Nhơn Lê Văn Trung.

     

    Trước khi Đức Phạm Hộ Pháp bị nhà cầm quyền Pháp bắt đem đi đày, Đức Ngài biết trước đây là Thánh ý của Đức Chí Tôn muốn cho Ngài bị nạn để trả cho bớt oan khiên nghiệp chướng của dân tộc VN, nên Đức Ngài cam chịu, không né tránh. Đức Ngài sắp đặt hai việc: Việc thứ nhứt là giao cẩm nang cho ông Giáo Sư Thái Khí Thanh (người Tàu) để ông nầy bảo thủ Tòa Thánh, Việc thứ nhì là giao cho ông Giáo Thiện Đinh Công Trứ ở nhà lo xây dựng Đền Thờ Đức Phật Mẫu, cúng kiếng đầy đủ các lễ vía trong năm, bảo tồn Luật pháp Chơn truyền của Đạo, và thực hành 10 điều Cấm răn mà Đức Ngài ban cho Phạm Môn.

    Ngày 28-6-1941, Mật thám Pháp vào Tòa Thánh bắt Đức Phạm Hộ Pháp.

    Ông Giáo Sư Trần Quang Vinh cùng với Giáo Sư Thượng Minh Thanh qui tụ một số Chức sắc khác (gọi là Hội Thánh Sài Gòn) hợp tác với Nhựt Bổn ở Sài Gòn để chống Pháp và đòi hỏi Pháp phải trả tự do cho Đức Hộ Pháp.

    Ông Giáo Thiện TRỨ cùng hai vị Lễ Sanh: TRỪU và GIẢI chống lại việc lập quân đội và làm chánh trị của ông Giáo Sư Trần Quang Vinh, cho là sái với Luật pháp Chơn truyền của Đạo, nên bị quân Nhựt bắt ngày 3-1-Quí Mùi (dl 7-2-1943).

    Ngày 12-6-Quí Mùi (dl 13-7-1943), quân Nhựt thả ba ông: Trứ, Trừu, Giải trở về. Ông Trứ phải nằm dưỡng bịnh và thuốc thang trong hai tháng mới mạnh trở lại vì ông đã bị Nhựt Bổn tra tấn quá nhiều.

    Khi sức khỏe bình phục, ông Đinh Công Trứ qui tụ một số anh em trong Minh Thiện Đàn ở Phú Mỹ, đi xuống Bàu Sen thuộc xã Trường Hòa, Tây Ninh, mua đất để lập cơ sở làm ăn sinh sống mà lo tu hành.

    Ông khởi cất Qui Thiện Đường ngày 26-9-Quí Mùi (dl 24-10-1943), khai khẩn thêm đất để trồng tỉa, và đặc biệt ông cùng với các thệ hữu lập một ngôi thờ Đức Phật Mẫu trong Qui Thiện Đường, như lời Đức Hộ Pháp dặn dò trước khi Đức Ngài bị nạn đồ lưu. Đây là ngôi thờ Phật Mẫu đầu tiên của Đạo Cao Đài. Đáng lẽ ngôi thờ nầy phải cất ở Phú Mỹ (Mỹ Tho) nơi Sở Thảo Đường trong khuôn viên đất 60 mẫu mà Đức Phật Mẫu trước kia giáng cơ dạy Minh Thiện Đàn khẩn đất và lập nên, nhưng vì thời cuộc biến thiên, nơi Phú Mỹ xảy ra chiến tranh, nên ông Trứ và các thệ hữu Minh Thiện Đàn phải rút về Tòa Thánh Tây Ninh, lập Trường Qui Thiện và thờ Phật Mẫu nơi đây. Đạo nơi đây còn rất nghèo nên chỉ làm Qui Thiện Đường với cột cây, vách đất, lợp tranh. Sau nầy sẽ cất Điện Thờ Phật Mẫu khang trang và rộng rãi hơn.

    II. NỘI LUẬT CỦA TRƯỜNG QUI THIỆN:

    Ngày 4-4-Mậu Tý (dl 12-5-1948), ông Chủ Trường Qui Thiện Đinh Công Trứ cho mời các đạo hữu nam nữ trong Trường nhóm họp tại Văn phòng Tứ Dân, ông trình bày về Đạo pháp chánh tâm, thể dụng thực hành và sắp ra 6 luật:

    Đạo Pháp Chánh Tâm thể dụng thật hành

    Thưa chư Chức sắc, Chức việc và toàn đạo hữu Tứ Dân, nội dung ngoại giao Trường Qui Thiện,

    Tuân y Pháp Chánh Truyền của Chí Tôn thật hành Thiên đạo, kỉnh trọng mạng sanh đặng vừa theo tánh chất của Trời, nên lập ra Sở Dưỡng Lão, Bảo Sanh, Trĩ Ấu, Cấp Cô, Học Đường và Phước Y Viện, đặng cứu thế độ nhơn, trọn giữ Chơn truyền nên Đạo Trường Qui Thiện mới xứng phận người tu, giáo dân chí thiện chí chánh, chí thành chí chơn, chí mỹ.

    Điều thứ nhứt: Buộc phải trọng lời Sư Phụ, phê cho Trường Qui Thiện là nhà tu chơn tạo trước, nên phải trau mình hằng bữa, chẳng cho ngũ trược nhiễm thân, trọn giữ trai giới đặng sáng suốt tinh thần, khỏi phạm Sắc Tài Tửu Khí, không hệ lụy chữ tu, gìn lòng chơn chánh, quên mình làm nên cho người, muôn việc đều chẳng dối mới rõ chữ chơn, trọn giữ thập điều, làm ra mặt đạo.

    Điều thứ nhì: Buộc cả Chức sắc, Chức việc và đạo hữu Tứ Dân Trường Qui Thiện phải diệt tận phàm tâm, chẳng đặng tư thân tư kỷ, riêng của cải trọng vợ con, phải coi đồng đạo như anh em ruột thịt, trọn đức tin, biết Chí Tôn là cha cả, vạn loại là con chung, bằng chẳng vậy là kẻ âm mưu giục nghịch muốn phân thây xé thịt con cái Chí Tôn thật là đắc tội, nếu chẳng biết ăn năn sẽ chịu quyền thiêng liêng hành pháp.

    Điều thứ ba: Đạo Pháp Chánh Tâm, nội dung và ngoại giao, đồng nhứt luật, ái vật kỉnh nhơn, làm cho thượng hòa hạ mục, lấy nhơn nghĩa quảng giao, dụng từ bi độ chúng, rải bác ái đại đồng, giữ luật công bình làm cho dân an cư lạc nghiệp, nếu có điều chi phản trắc mất sự tín nhiệm của chúng sanh, tức là làm hư cả danh đạo thì mất quyền công dụng của Tứ Dân, chung thân khép mình vào Pháp giới Tịnh đường, chuộc tội với Đức Chí Tôn.

    Điều thứ tư: Cả thảy cơ quan Ban Hộ Giáo ủng hộ người cô thế, binh vực quyền lợi cho Tứ Dân, khai mở thêm Sĩ, Nông, Công, Cổ, bày điều lành dẹp chỗ quấy, chỉ rõ điều họa phước, dạy người lánh dữ về lành, dìu dắt người về chánh đạo.

    Cả thảy phương pháp ấy đều giúp hay cho Trường Qui Thiện, định nhơn tài, khai thông đường kinh tế, mới có đủ thế chẩn cấp cho các cơ quan: Dưỡng Lão, Bảo Sanh, Trĩ Ấu, Cấp Cô, Học Đường, và Phước Y Viện, nêu cao danh Nhơn Nghĩa.

    Điều thứ năm: Tài chánh mỗi tháng thâu xuất phân minh, lục ngoạt với chung niên phải phúc sự, nếu sơ thất phải chịu trọng trách, nếu phạm tài chánh, lấy danh nhơn nghĩa đặng lợi dụng thâu góp của chúng sanh, thì khép vào Pháp Chánh, rút về Pháp giới Tịnh đường đặng trau mình ăn năn chuộc tội và phải bị giáng cấp.

    Điều thứ sáu: Những vị có tờ bổ hay là xin ra lập sở, sáu tháng phải lập tờ tài sản gởi về và xin người đến kiểm soát, đem về nhập khố làm của chung cho đạo. Trong 3 năm đắc thành sẽ được thăng thưởng hay là bổ đi nơi khác, nếu không kết quả là bất lực thì phải rút về Pháp giới Tịnh đường đặng xét mình tầm phương tự giác, như chẳng tuân thì làm tờ xin nghỉ và giao tất cả tài sản lại cho đạo. Nhược bằng nghịch pháp thì trục ngoại đuổi ra và chẳng đặng dựa vào cơ quan Ban Hộ Giáo của Trường Qui Thiện.

    Ôi!

    Luật điều Cổ Phật không chừa tội,

    Hình phạt Chí Tôn chẳng vị tình.

    Vậy nên Tiểu tăng chẳng nỡ làm thinh, khép mình ra 6 luật, cầu rỗi Đức Chí Tôn tha tội thiêng liêng lập luật hình để răn Thánh chất. Như Chí Tôn rưới giọt hồng ân cho chơn thần sáng suốt, tự biết lỗi mình, ăn năn sám hối. Nếu chẳng tuân luật hữu hình thì vô vi trừng trị, ai binh đặng nữa.

    Kính toàn đạo các cơ quan Trường Qui Thiện hãy để trọn đức tin khi thi hành Đạo Pháp Chánh Tâm nầy, tôi rất mong thay cho đời khỏi phạm.

    Thành lập tại Trường Qui Thiện, ngày 17-4-Mậu Tý (1948)

    CHỦ TRƯỜNG Đinh Công Trứ.

    III. VẤN ĐỀ TREO BẠCH KỲ:

    Ông Đinh Công Trứ dựng tại Trường Qui Thiện một cây cột cờ để treo một lá cờ trắng gọi là Bạch kỳ Nhan Uyên. Ông Trứ nói đó là theo ý của Ngài Phối Thánh Phạm Văn Màng.

    Ngày 28-11-Ất Dậu (dl 1-1-1946) Ngài Phối Thánh Màng giáng cơ thanh minh với Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi, trích ra như sau:

    "Mấy bạn tôi dựng Cờ trắng rồi đổ thừa cho tôi là Mạnh Tử dạy cầm Bạch kỳ chiêu an thiên hạ, ấy là nói về tâm lý, chớ chẳng phải dựng cây cờ lên để đủ thứ pháp lăng nhăng, không khác nào khách Sơn Đông treo cờ làm quảng cáo mãi võ nhổ răng, mà xưng hô là Mạnh Tử chiêu an thiên hạ.

    Cây cờ phải cho thiệt trắng, không chút bợn nhơ, chẳng cho dính bợn trần thì chiêu an mới được. Chớ cờ ngó vào thấy đủ thứ đốm, ấy là tâm mình cũng chắc vậy. Treo cờ lên chẳng hổ với lương tâm, và cũng khoe mình dốt cho người ta biết.

    Vậy Sư Thúc Khai Đạo cùng quí Chức sắc HTĐ cho bạn tôi hay nên dẹp nó đi."

    Đức Hộ Pháp có lời trách cứ về việc treo Bạch kỳ:

    "Qua hỏi em thượng phướn Bạch kỳ ý nghĩa gì? Nghĩa lý gì? Một điều em đã trái Thánh ý. Em biết cây cờ Nhan Uyên để dùng nó lúc nào không? Mà nay em đem ra để thực hành điều ấy, ai biểu?

    Ông Đinh Công Trứ bạch:

    - Bạch thầy, vâng theo Thánh giáo của anh Thánh Ba.

    - Phải! Qua cũng nhờ Thánh Màng mách với Qua, Qua mới biết điều ấy.... Ngày nào Thượng Sanh ra đời là cây cờ Cứu Thế, còn Thượng Phẩm là cây cờ Cứu Khổ. Qua chỉ dìu dắt mấy em đi trong đường Cứu khổ, Qua thay cho Thượng Phẩm gầy dựng đào tạo, chịu cực để khai phá rừng xanh, ít người lai vãng mà nay trở thành đô thị tôn giáo.

    Cây cờ trắng dùng để khi nào dân tộc xô xát, cốt nhục tương tàn khốc liệt, vô phương cứu chữa, thì ngày ấy là ngày giá trị của nó. Màng là người của Qua chọn lựa, nhưng Màng đã đạt Thánh vị nơi cõi thiêng liêng, lại gởi Thánh giáo cho mấy em học, người đã nói rằng: Trong phương pháp cứu khổ, chỉ có cầm cờ trắng của Mạnh Tử đặng giải hòa, phòng duy trì cơ nghiệp nhà Châu nguy biến....

    Qua nói: Cây cờ Cứu khổ của Đức Chí Tôn ngày sau phải trải trên mặt địa cầu nầy, chỉ có Cơ quan Cứu khổ của Hội Thánh Phước Thiện thay cho Qua đặng làm điều ấy. Qua chỉ nói CQPT mà thôi, ngoài ra không em nào đứng riêng ra mà làm được....."

    IV. RƯỚC LONG VỊ ĐỨC PHẬT MẪU TẠI QUI THIỆN ĐƯỜNG về thờ nơi Báo Ân Từ trong Nội Ô Tòa Thánh.

    Đức Hộ Pháp cho sửa chữa Khách Thiện Đường trong Nội Ô Tòa Thánh để lập thành Báo Ân Từ thờ Đức Phật Mẫu. Đức Ngài ra lịnh cho Hội Thánh PT trình qua cho Chức sắc Lưỡng Đài biết, lập nghi lễ tiếp rước long trọng để rước long vị Đức Phật Mẫu nơi Qui Thiện Đường về thờ nơi Báo Ân Từ.

    Nghi lễ rước phải có bàn Hương án, Long mã, Lễ Nhạc, và Chức sắc lưỡng đài, Phước Thiện.

    Ngày làm lễ rước Long vị Đức Phật Mẫu là ngày 14 tháng 8 năm Bính Tuất (dl 9-9-1946), khởi đi từ Qui Thiện lúc 9 giờ, về tới Báo Ân Từ lúc 11 giờ.

    V. TỜ CUNG CHIÊU:

    Ông Đinh Công Trứ làm Tờ Cung Chiêu gởi lên Đức Hộ Pháp tường thuật tất cả việc làm của ông và nhóm của ông trong suốt thời gian Đức Hộ Pháp bị đồ lưu nơi hải ngoại.

    Nguyên văn Tờ Cung Chiêu như sau:

    TỜ CUNG CHIÊU

    Bạch Sư phụ,

    Trong khi thầy vắng mặt thì anh em có chung đậu số tiền cộng hết thảy là 1.539$70 đặng kiếm thầy và cậy người hộ luật, nhưng tìm không đặng tin tức. Khi trở lại Thánh Thất Chợ Lớn, con có đưa cho ông Giáo Sư Chữ và Luật Sự Kỉnh 220$, ở lại cả tháng mà cũng bặt tin. Kế có người của ông Cao Tiếp Đạo sai xuống cho Hội Thánh và con hay đặng chung lo, thì con gởi 300$. Sau thơ gởi dạy việc, thì con đến tại Thánh Thất Kim Biên nghe ông dạy, rồi đưa cho ông 500$, cộng hai lần là 800$ đặng gởi ra thầy.

    Con vì trông tin vắng bặt một thời gian thì Cô Ba tiếp đặng dây thép, nên con đưa Cô Ba 300$ đặng gởi ra cho thầy thử coi có nhận được chăng, thì chẳng thấy hồi âm, còn dư tiền thì con mới đóng các sắc thuế của thầy (44$50) và Cô Hương Kiệm xuất 25$00, hiện còn 15$00 con giao cho Đạo.

    Đến tháng 8, chánh phủ Pháp vào mượn Tòa Thánh và tất cả dinh thự cho đến Khách Thiện Đường, kỳ trong 24 giờ phải ra cho khỏi. Vì vậy mà con đành thất phận, kéo đồ ra tạm nhà ngoài, thì có 5 vị Đạo hữu nam là: Tồng, Kiên, Khanh, Thăng, Huyền; nữ phái là Hầu và Đáng chung lo làm ăn giữ cửa ấy. Đến tháng 10, khi con vắng mặt, bị Pháp chở nên còn chút ít, nhằm đời gắt gổ, việc đạo phải ngưng chức 3 năm cưới vợ.

    Qua năm 1942 (Nhâm Ngọ) tháng 10, đạo bị biến thiên, lòng người trở theo Nhựt Bổn đặng đả đảo chánh quyền của Pháp. Vậy hễ người làm việc ở trong Nippon bảo hộ, còn kẻ không làm, ở ngoài sẽ bị Pháp hiềm nghi mà khắc phạt.

    Con thấy tình trạng khó khăn, nên con với Giải và Trừu hiệp nhau soạn "Luật Pháp Chơn Truyền và Đạo Nghị Định số 8 của thầy và Đức Lý GiáoTông phê chuẩn" rồi lần lượt viết 9 bức thơ gởi xuống Văn phòng số 4 mà công kích ông Đại Biểu (Giáo Sư Thượng Vinh Thanh, Trần Quang Vinh) và sau gởi luôn cho Đạo hay rằng: Ông làm sái chơn truyền nên định quyết là Bàng Môn Tả Đạo. Ấy là sự buộc lòng phải làm cho Pháp hồi tâm suy nghĩ đặng chữa bên ngoài, vì cớ ấy mà con đem Luật pháp Chơn truyền ra nói thẳng, nên chạnh đến lòng ông, thật là có lỗi.

    Nên ngày 3 tháng giêng năm Quí Mùi (dl 7-2-1943) bị Nhựt Bổn bắt gia hình đến ngày 12 tháng 6 (dl 13-7-1943) mới trả về.

    Khi con về dưỡng bịnh hết 2 tháng, vừa mạnh, con xuống làng Trường Hòa mua đất cất nhà gọi là Qui Thiện tu thân, gom những người cô thế chung lưng đâu cật, gầy sự thương yêu, làm lành lánh dữ, không tuân mạng lịnh Hội Thánh Sài Gòn, nhằm buổi Đạo Đời tương khắc.

    Thì thầy Cai Tổng Tui đòi ra, ông dạy rằng:"Người Đạo Cao Đài theo Nhựt Bổn mà làm rối, nên người Pháp định sẽ bắt hết mà làm khó, qua thì thương nên cho em hay trước, hãy cuốn tượng và thâu xếp nhơn công, sắp đặt việc làm ăn bớt lại."

    Thì con bẩm với ông: "Chúng tôi thật sự tu hành, theo luật pháp và tờ cam kết, tùng mạng lịnh của Pháp triều cho đến ngày Đạo phục hưng, chớ ngoài vạn quốc các nước liệt cường thế mấy, chúng tôi cũng không tùng lịnh, vì vậy mà phải bị bắt 6 tháng, chánh phủ Pháp đủ hiểu, nhưng nay dầu có liên can thì cũng vui lòng vì Đạo cam chịu, chớ cuốn tượng rồi Chánh phủ buộc tội lại càng thêm hối hận. Vậy, những lời thầy, tôi đâu dám chẳng vưng, nhưng xin thầy rộng xét cho thờ."

    Ông nói rằng: "Thầy là bạn thiết của thầy nên thấy việc khổ phải cho con hay, đặng sau khi thầy về khỏi trách và cho con tự hiểu lấy, chớ ông không ép."

    Thì con để lời cám ơn ông mà về. Vì vậy mà khỏi phép tình nghi, cũng nhờ ơn ông trong đó.

    Còn sau nầy con lấy hai chữ Nhơn Nghĩa mà thiệt hành, nên đối với quyền đời, đôi bên đều hảo hiệp, mới tạo được cơ nghiệp khả quan, những là Nhà Minh Thiện, hai là Khách Thiện, ba là Học Đường, bốn là Y Tế, năm là Bảo Sanh, sáu là Dưỡng Đường, bảy là Trai Đường, tám là cơ sở Nông Tang, chín là Công Nghệ, mười là Thương Mãi, mười một là khai mở Thuật nghiệp của Tứ Dân, nên có lập Bàn Cai Quản nam nữ, mỗi bên có Chủ Trường và 4 vị Nghị viên Sĩ Nông Công Thương, và Từ hàn, Thủ bổn, Kiểm soát, đặng chăm nom các phương diện mà không sao lục án tòa, chẳng đệ lên Chức sắc bề trên, còn ngoài thì có Ban Hộ Giáo, ấy là tự mình lập phái thì có tội.

    Còn các việc sáng tạo trên đây là công nghiệp của anh em con.

    Đến lúc ở Lục tỉnh bị Pháp khủng bố dân lành, thì con quyết hy sinh vì Đạo, nên cầu nguyện Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng. Khi cúng Vía Đức Thái Thượng Đạo Tổ rồi, đến ngày 17 tháng 2 khởi hành, trong khi đi có Bảng Đạo và Cờ "Vạn Pháp qui nhứt" và Cờ Trắng hai cây cắm vào Bảng Đạo dựng trước mui ghe và 8 vị Đạo hữu tình nguyện đi theo:

    1) Lê Quang Đức. 2) Nguyễn Văn An.

    3) Lê Bá Kỳ. 4) Trương Vạn Chung.

    5) Nguyễn Hữu Ngàn. 6) Nguyễn Văn Chiêu.

    7) Nguyễn Hữu Thoại. 8) Nguyễn Hữu Vận.

    Chèo xuống Cẩm Giang, Chef Poste xét rồi cho đi, tới Vên Vên thì Đội Dương bắt lại, hỏi và buộc tội: Bảng đạo là Việt Minh, Cờ đạo là Nội ứng nghĩa binh, Cờ trắng là theo Nhựt Bổn há?

    Thì con nói: Không, Bảng đạo và Cờ đạo nầy tùng Tòa Thánh Tây Ninh, buổi trước giữ theo Tờ cam kết của ông Giáo Chủ tôi và hứa tùng mạng lịnh của Pháp triều cho đến ngày Đạo phục hưng, ngoài vạn quốc dầu có liệt cường thế mấy cũng không tùng lịnh, cây cờ trắng là tỏ lòng thanh bạch không theo Nhựt Bổn, và không theo Việt Minh, chúng tôi chỉ biết tu hành, khuyên người lánh dữ. Nhưng họ cứ dọa nạt hăm he đủ thứ.

    Rồi rốt cuộc giải xuống Gò Dầu, giam 5 ngày, gặp ngày bạo động nó dẫn ra bắn. Nhờ hồng phước Chí Tôn xây chuyển nên có người đến cứu, đem lại khám giam 2 ngày rồi tha bổng cho phép trở về.

    Vậy các việc con làm từ thử, dầu không có mạng lịnh của thầy và quyền Hội Thánh ban cho, vì trong khi vắng mặt mà con làm quá phận sự, thật có lỗi nhiều.

    Nay Sư phụ về chấn hưng tôn giáo và lập Hội Thánh hoàn toàn thì con cúi đầu chịu tội, nên cách chức Lễ Sanh, mất quyền hành chánh trị, xin cho về cửa Đạo dưỡng tánh tu chơn.

    Mong Sư phụ và Hội Thánh ban ơn cho con nhờ phước.

    Khấu bái Tôn sư.

    Ngày 6 tháng 9 năm Bính Tuất (dl 30-9-1946)

    Lập tại Qui Thiện Đường.

    ĐINH CÔNG TRỨ (ký tên)

    (Tài liệu của Nhạc sĩ Lê Minh Dương, đệ tử Trường Qui Thiện)

    VI. CẤT ĐỀN THỜ PHẬT MẪU tại TRƯỜNG QUI THIỆN.

    Chủ Trường Qui Thiện Đinh Công Trứ dâng Tờ Cung Chiêu lên Đức Phạm Hộ Pháp xong thì Đức Hộ Pháp gọi ông Trứ lên Hộ Pháp Đường, hỏi:

    - Cả công trình mà Bần đạo giao phó cho em ở nhà xây cất xong chưa?

    Ông Trứ đáp:

    - Con cúi đầu chịu lỗi với thầy. Trong khoảng thời gian thầy vắng mặt, con không chịu hợp tác với Hội Thánh Sài Gòn nên bị Nhựt Bổn bắt giam con 5 tháng 10 ngày, khi Nhựt thả con ra, con dưỡng bịnh hết 2 tháng. Đến khi con mạnh rồi, con kêu gọi anh chị em vì Thầy vì Đạo về hiệp sức với con lo xây cất Đền Thờ Phật Mẫu và dinh thự theo lời thầy chỉ giáo cho con. Vì thời buổi khó khăn thiếu cơm ăn áo mặc và thiếu vật liệu kiến tạo, con phải chịu chậm trễ, con cúi đầu chịu tội với thầy, xin thầy chỉ giáo thêm cho con.

    Đức Hộ Pháp nói:

    - Nay Bần đạo mãn nạn rồi, trở lại lái chiếc thuyền Đại Đạo. Em gấp lo xây cất Đền Thờ, khi xong cho Bần đạo hay để sắp đặt cho em làm lễ Khánh Thành.

    Ông Đinh Công Trứ dạ vâng lịnh.

    Khoảng giữa năm 1948, Đền Thờ Phật Mẫu ở Trường Qui Thiện xây cất vừa xong. Ông Chủ Trường Đinh Công Trứ lên Hộ Pháp Đường báo cáo với Đức Hộ Pháp.

    Đức Hộ Pháp nói:

    - Em sắp đặt chương trình, định ngày, rồi viết thơ mời Hội Thánh Lưỡng Đài và Phước Thiện, các cơ quan đều đủ. Đến giờ, Bần đạo xuống khai mạc Lễ Khánh Thành, Bần đạo chứng đàn, dâng sớ lên Đức Phật Mẫu, Bần đạo nhờ Bảo Thế quì Ngoại nghi; còn cúng Đức Chí Tôn trên lầu thì Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Non Thanh quì Nội nghi dâng Sớ lên Đức Chí Tôn, Chức sắc CTĐ đủ 3 phái, dùng 2 dàn nhạc, 2 bộ lễ, có đủ Lôi Âm Cổ và Bạch Ngọc Chung.

    Ông Đinh Công Trứ dạ lãnh lịnh thi hành.

    Lễ Khánh Thành Đền Thờ Phật Mẫu tại Trường Qui Thiện tổ chức vào 2 ngày: 16 và 17 tháng 7 năm Mậu Tý (dl 20 và 21 -8-1948).

    Trong dịp lễ nầy, trước mặt các Chức sắc của Hội Thánh Lưỡng Đài và Phước Thiện, Đức Hộ Pháp nói:

    "Cơ quan nầy thuộc về Phước Thiện, nhưng đào tạo ra đây riêng biệt do những người ở Phạm Môn ngày trước, bởi muốn giữ cho trọn vẹn đường tu trong lúc loạn động mà không căn bản, có Thảo Đường mà lập không xong, nên khiến cho Trứ về đây đặng tiếp tục lập cho thành.

    Nguyên gốc của nó tại Phú Mỹ. Hồi lập Trường Qui Thiện, tâm thần của Đạo bị anh Đốc Phủ Ca làm náo động loạn thần, không phân biệt được con đường phải đi, nhứt là tội nghiệp cho Nữ phái, cần độ rỗi họ trở lại. Cho nên Trường Qui Thiện cốt yếu qui tụ cả nữ phái lại đặng gìn giữ nguyên bổn chơn truyền của mình.

    Rồi cùng nhau về Thảo Đường lập căn cứ nữa mà không xong, vì Hội Thánh Phước Thiện rút về Tòa Thánh, kế Bần đạo bị đồ lưu. Đến khi Trứ về đây qui tụ trở lại cũng chưa được. Trường Qui Thiện ngày nay còn tồn tại là chịu ơn của Hội Thánh và quân đội rất nhiều.

    Ở nhà, trong thời kỳ Nhựt Bổn, Trứ làm một mình, chẳng tùng ai hết, kế Bần đạo về, nhà đương quyền quân sự Pháp viết giấy hỏi Qui Thiện có phải của Đạo hay không mà chứa chấp Việt Minh, và họ nhứt định đốt. Sự thật cũng có chứa bọn ấy, mà vụ nầy phát giác là do nhân viên mật thám biết rõ mà điềm chỉ. Chừng Bần đạo gởi thơ trở lại nói Trường Qui Thiện là của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và dưới quyền chỉ huy của Bần đạo thì họ mới buông tha cho, khỏi tàn phá. Tới sau, mình dùng chước giảng hòa với Pháp, Việt Minh tưởng rằng mình theo Pháp nên đòi thiêu hủy nữa, Bần đạo bảo Đại Tá Phương chiết ra một Bộ đội gìn giữ.

    Bần đạo nói nhờ ơn Hội Thánh và quân đội là vậy.

    Đức Hộ Pháp gọi: Trứ!

    Ông Trứ: - Dạ.

    Đức Hộ Pháp nói tiếp: - Thánh thể của Đức Chí Tôn duy có một, không hai, nếu chia ra là Tả đạo Bàng môn, mà Tả đạo đó trước mắt em thấy biết bao nhiêu, họ chia rẽ ra, hỏi ngày nay họ làm nên trò gì đâu? Họ chia rẽ họ sẽ chết, không chết cũng tiêu hủy.

    Hội Thánh duy có một, dầu biến ra trăm hình ngàn trạng cũng luôn luôn chỉ có một. Chủ quyền là Thánh thể của Đức Chí Tôn đó thôi. Hễ tâm lý muốn tạo ra đây đặng phân chia, sẽ bị tiêu diệt, nghe không?

    Ngọn lửa hai lần muốn thiêu hủy Trường Qui Thiện là do nguyên căn Trứ muốn chia rẽ, cái hại ấy do tinh thần của Trứ . Đây không phải Qua nói, Thánh Màng về nói những điều em dự định làm, những ý nghĩ em dự định thực hành.

    - Trứ! Qua hiểu em hơn ai hết, thầy em hiểu em, mà không lẽ Phối Thánh Màng cáo gian cho em? Nó nói hết công chuyện với Qua, ở nhà em làm gì và còn muốn làm gì nữa. Qua dặn một lần nữa: Vì đạo của Chí Tôn có một, ai muốn phân chia lực lượng Thánh thể của Ngài sẽ bị tiêu diệt mà thôi. Chẳng những bị tiêu diệt mà còn phải xuống Phong Đô đền tội nữa. Đạo biến ra trăm hình ngàn tướng vẫn dưới một chủ quyền của Chí Tôn.

    Vậy Trường Qui Thiện nầy đặt dưới quyền của Hội Thánh PT. Trứ từ đây lãnh chức Đốc Trường, không còn kêu là Chủ Trường nữa. Làm chủ trường nầy là cả Bàn Cai Quản, làm đầu Bàn Cai Quản là ĐốcTrường, tất cả tùng quyền Hội Thánh PT, cũng như Hội Thánh PT chưa hề rời Hội Thánh CTĐ vậy.

    Thật ra quyền Hội Thánh PT thuộc về HTĐ. HTĐ chia đôi ra: - Pháp Chánh giữ gìn Chơn truyền, Phước Thiện lo cứu khổ nhơn sanh; còn CTĐ có Hành Chánh Đạo giáo hóa, tuyên truyền, giữ tài sản của Đạo.

    Vậy Phước Thiện, Trường Qui Thiện nầy duy để lo làm ra của cải mà thôi, chẳng đặng thâu của cải một ai, làm ra đặng bao nhiêu thì dùng bấy nhiêu, kỳ dư có ai thật hảo tâm hỷ cúng mới thâu vào sổ của Trường, rồi phải phúc sự cho Hội Thánh PT biết liền. Từ đây về sau, sở phí, huê lợi gì của Trường Qui Thiện cũng phải chạy tờ Phúc cho Hội Thánh PT biết rõ. Sổ Bộ của Trường tuy riêng biệt nhưng phải do Hội Thánh cầm. Qua lập lại: Cấm đi tởi tiền thiên hạ, làm được thì làm, làm không được thì thôi, nghe chưa?

    Ngày kia Qua về nhà Tịnh rồi, Qua còn lập ra cơ quan Tịnh Thất cho nam nữ nữa, mà lập rồi, cũng để dưới quyền của Hội Thánh. Mấy em thấy từ thử, thầy của mấy em làm nô lệ cho Đạo, tạo ra bao nhiêu của cải mà vẫn cúi đầu trước Hội Thánh, bởi quyền Hội Thánh là quyền thiêng liêng của Chí Tôn để tại mặt thế. Phân chia sẽ bị tiêu diệt mà còn xuống Phong Đô ngồi đó nữa.

    Lập lại một lần nữa, cả thảy phải nhớ đa nghe! Trứ! lần nầy là lần chót Qua nói với em, em không nghe lời thì chịu lấy. Trước mặt Bàn Cai Quản, trước mặt Hội Thánh Phước Thiện làm chứng: Từ đây kêu là Đốc Trường. Chủ là mấy em đây, chúng nó làm đổ mồ hôi, nước mắt, tồn tại đặng đây. Em trung thành với Qua, em thương Qua thế nào Qua biết lắm, nhưng đầu óc em dị hợm lắm! Qua đây còn phục Hội Thánh, mà em chống lại thì tiêu hủy đa!

    Ông Trứ nói: - Bạch thầy, khi thầy về, con có làm tờ thú tội với thầy rằng: Con không tùng Hội Thánh Sài Gòn vì lòng con nghi ngờ đó thôi.

    - Tại sao em nghi ngờ sự chơn giả? Qua biết rằng trong mười phần giả đó cũng có hai phần thiệt.Dầu trong đám đó đều là kẻ lạ hết, mà có một vị Giáo Hữu hay Giáo Sư trong đó, Qua cũng không dám nói là giả. Thoảng như họ làm không nên, thì vị Giáo Sư hay vị Giáo Hữu đó sẽ chịu tội trước Tòa Tam Giáo BQĐ. Em nên nhớ, ở đây không ai đầu cáo em đâu, HTĐ, CTĐ, PT cũng vậy, người đầu cáo em là Phối Thánh Màng.

    Chúng em biết tại sao họ lập cơ quan ở Sài Gòn không? - Là vì Qua bị bị Pháp bắt nên họ đòi thầy họ về. Cái khối oán dẫy đầy, kêu gọi toàn thể đứng dậy đó, mà Qua làm chứng rằng họ làm có kết quả đó vậy.

    Ông Trứ: - Bạch thầy, vì thầy ở bển có một mình, bên nây làm, sợ có hại cho thầy chăng, nên con không tán thành.

    - Nếu vậy thì em không biết quyền năng của Chí Tôn ra thế nào sao? Qua biết chúng bắt mà ngồi đây cho nó bắt, nếu quả có gì hại thì đừng tu.

    Đức Hộ Pháp bảo Bàn Cai Quản ra mời Hội Thánh CTĐ vào đây. Hội Thánh CTĐ vào.

    - Thưa cùng chư Chức sắc CTĐ, Trường Qui Thiện của HTĐ ngày nay đã hoàn thành đặng có nơi cho phụ nữ tu chơn và đặt dưới quyền của Hội Thánh PT, nhưng vì với Trường Qui Thiện, Hội Thánh có nhiều công giúp đỡ bảo bọc nên Hội Thánh HTĐ trình ra cho Hội Thánh CTĐ được biết. Về chánh qui của Đạo, cơ quan nầy không phải tư riêng, phải tùng y luật lệ của Hội Thánh CTĐ, HTĐ. Thoảng ngày kia nó đi ngoài chơn truyền Pháp chánh thì hai Đài có quyền giải tán.

    Ngày nay, Bần đạo trình nó ra mặt công khai của Đạo, thuộc quyền PT, tức là thuộc HTĐ Chưởng quản. Thoảng ngày kia nó phạm pháp luật, hoặc chẳng noi theo chơn truyền của Đại Đạo, tự lập tôn chỉ khác, chúng ta có quyền giải tán."

    VII. HỘI YẾN DTC LẦN ĐẦU TIÊN TẠI TRƯỜNG QT.

    Qua cuộc lễ Khánh Thành Đền Thờ Đức Phật Mẫu tại Trường Qui Thiện, Đức Hộ Pháp bảo ông Nhạc Sư Võ Văn Chở xuống Trường QT hợp với ông Đề Nhạc Trần Văn Ân tập duợt đồng nhi thài cúng Lễ Hội Yến DCT tại Đền Thờ Phật Mẫu Trường QT. Trong buổi tập duợt, Ban nhạc 6 người chia hai nhóm, mỗi nhóm một đêm luân phiên tập duợt.

    Nhóm 1 có: Huỳnh Văn Lễ, Nguyễn Văn Cầu, Nguyễn Vĩnh Viễn.

    Nhóm 2 có: Lê Minh Dương, Nguyễn Thành Phúc, Nguyễn Thanh Liêm.

    Phần Giáo Nhi có bốn Cô: Xinh, Tâm, Nhung, Liên, luân phiên một đêm hai Cô tập duợt.

    Đề Nhạc Trần Văn Ân liên tiếp thường trực.

    Ngày 10-8-Mậu Tý (dl 12-9-1948) nhằm Chúa nhựt, khoảng gần 8 giờ sáng, Đức Hộ Pháp đến Hộ Pháp Tịnh Đường tại Trường QT bảo ông Nhạc Sư Võ Văn Chở và Đề Nhạc Trần Văn Ân, kêu ban nhạc và đồng nhi, Giáo nhi đến Hộ Pháp Tịnh Đường để đờn và thài cho Đức Hộ Pháp nghe.

    Đức Hộ Pháp nghe rồi khen hay, nói:

    - Hồi trước tới bây giờ, mấy đứa nhỏ nầy đâu có biết thài cúng Hội Yến, mới tập hơn một tuần mà nó thài, Bần đạo nghe đâu có thua đồng nhi trên Tòa Thánh.

    Đốc Trường Đinh Công Trứ bạch:

    - Bạch Sư Phụ, nơi Báo Ân Từ cúng Hội Yến DTC có quí Thời Quân bồi yến, còn tại nơi đây, thầy bảo mấy con tập duợt cúng Hội Yến DTC, vậy thầy dạy mấy con cúng thời nào? và ai đứng bồi yến? đặng chúng con lo sắp đặt.

    Đức Hộ Pháp đáp:

    - Thời Tý cúng Đại lễ Đức Phật Mẫu xong rồi, tiếp cúng Hội Yến luôn. Còn phần bồi tửu thì Đốc Trường và lựa thêm mấy đứa trường chay cho đủ số 12, đứng bồi yến. Chừng nào Chức sắc Thời Quân HTĐ biết nhìn đến cúng thì mấy đứa bây nhường cho HTĐ cúng. Mấy đứa bây cứ làm theo lịnh Bần đạo dạy là đủ phận, ai canh cải điều gì thì họ chiụ trách nhiệm.

    Đức Hộ Pháp ra xe trở về Hộ Pháp Đường lúc 11 giờ 30 sáng cùng ngày. (Tài liệu của Nhạc sĩ Lê Minh Dương)

    Do theo sự cho phép của Đức Hộ Pháp, lễ Hội Yến DTC hằng năm từ đây về sau được tổ chức tại Đền Thờ Phật Mẫu trong Trường QT vào đêm 14 tháng 8, sau khi cúng Đại Lễ Đức Phật Mẫu xong. Còn nơi Báo Ân Từ thì cúng Hội Yến DTC vào đêm 15 tháng 8 và khởi lễ lúc 10 giờ khuya.

    VIII. THÁNH LỊNH MINH ĐỊNH TRƯỜNG QUI THIỆN.

    Sau khi Đức Hộ Pháp đem Trường Qui Thiện (QT) ra trình với Hội Thánh Lưỡng Đài và Hội Thánh PT trong dịp Lễ Khánh Thành Đền Thờ Phật Mẫu Trường QT, Đức Ngài ra Thánh Lịnh số 139 qui định về hoạt động của Trường QT.

     

    HỘ PHÁP ĐƯỜNG ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
    Văn Phòng (Nhị thập tứ niên)
    ----- TÒA THÁNH TÂY NINH
    Số: 139

    THÁNH LỊNH

    HỘ PHÁP

    Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài

    Hiệp Thiên và Cửu Trùng

    Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền,

    Chiếu y Đạo luật ngày 16 tháng giêng năm Mậu Dần (dl 15-2-1938) giao quyền Thống nhứt Chánh Trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ cho tới ngày có Đầu Sư chánh vị.

    Nghĩ vì Trường Qui Thiện là nơi đào tạo hiền nhơn để chung lo cùng Cơ Quan Phước Thiện cứu trợ sanh linh khỏi cơn đồ thán,

    Nghĩ vì công quả nầy thiên về phần âm chất vô vi hơn là về mặt chánh trị hữu hình,

    THÁNH LỊNH:

    Điều thứ nhứt: Chư vị hảo tâm hiến công quả tại Trường Qui Thiện không nhận lãnh tước phẩm chi hết. Cả thảy công quả nam phụ lão ấu chỉ giữ bổn phận tín đồ, tùng lịnh Hội Thánh mà thi hành chủ nghĩa cao khiết trên đây cho tới ngày về thiêng liêng vị mà thôi.

    Điều thứ nhì: Có Bộ Đạo riêng của Trường Qui Thiện do Giám Đốc Trường nầy giữ và cho đặng đứng vào Bộ Đạo, trước phải trọn hiến thân cho Hội Thánh Phước Thiện tại Tòa Thánh. Trong Tờ Hiến thân phải khai rõ muốn lập công nghiệp tại Trường Qui Thiện đặng Hội Thánh định cho.

    Điều thứ ba: Vị Bảo Thế thừa quyền Hộ Pháp, vị Khai Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, vị Chưởng Quản Phước Thiện và vị Giám Đốc Trường Qui Thiện các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh nầy.

  • Qui Thiện - Trường Qui Thiện

    Tòa Thánh ngày 16 tháng giêng năm Kỷ Sửu.

    (13 Février 1949)

    HỘ PHÁP (ấn ký)

    IX. ÔNG ĐINH CÔNG TRỨ BỊ ÁM SÁT CHẾT.

    Vào đêm 25-5-Kỷ Sửu (dl 21-6-1949), một vị công quả của Trường QT là ông Lê Minh Dương thấy bóng ông Đốc Trường xách cái đèn đi về phía nhà Minh Thiện, bỗng nghe có 3 tiếng súng nổ về phía đó, ông Dương liền chạy đến thì thấy ông Đốc Trường Đinh Công Trứ nằm chết tại cửa hông mé phải của nhà Minh Thiện và trên mặt có vết máu. Ông Dương liền la lên cho mọi người trong Trường biết, chạy tới, liền khiên xác ông Đốc Trường để nằm trên giường. Lúc đó xem đồng hồ là 10 giờ 35 phút tối. Lau vết máu trên mặt thì thấy có 3 vết đạn bắn trúng vào mặt trổ ra sau, làm ông chết liền tại chỗ.

    Sáng hôm sau, Ban Tẫn liệm trung ương xuống lo tẫn liệm xác ông Đốc Trường, rồi di quan về Báo Ân Từ trong Nội Ô Tòa Thánh làm lễ tế điện, cầu siêu, chèo thuyền và sau đó đưa linh cữu an táng nơi đất Cực Lạc mới.

    Đám tang cử hành rất trọng thể, trang nghiêm và cảm động. Rất đông Chức sắc, tín đồ, và học sinh đưa tiễn đến đất Cực Lạc.

    Cái chết thình lình của ông Đốc Trường Đinh Công Trứ làm cho các tín đồ của Trường QT rất hoang mang và rất oán giận những kẻ tổ chức ám sát ông, và cũng làm cho các Chức sắc cảm thấy xao xuyến bất an.

    Đức Phạm Hộ Pháp liền cử ông Chí Thiện Lê Văn Trung (sau nầy lên phẩm Hiền Nhơn) xuống Trường Qui Thiện trấn an nhơn tâm và sắp đặt công việc nơi đó.

    Ngày 2-6-Kỷ Sửu (dl 27-6-1949), tức là 7 ngày sau khi ông Đinh Công Trứ chết, vào lúc 2 giờ trưa, có đám mưa giông lớn, sấm sét đánh cây Bạch kỳ đứt dây rớt xuống.

    Bàn Cai Quản Trường QT báo cáo lên Đức Hộ Pháp, được Đức Ngài phê:

    "Qui Thiện, không phải toàn đạo, phải đủ trí phân biệt, đừng mê tín mà ra loạn tâm.

    Bần đạo định cho Chí Thiện Trung đến thay thế cho Trứ đặng chỉnh đốn Qui Thiện lại cho thuận Thiên điều. Cả thảy phải van vái và phải tùng mạng lịnh Chí Thiện Trung.

    Cây bạch kỳ nó là cây cờ tang của thuyết Nhan Hồi, bất đắc kỳ tử của Nhan Hồi thế nào thì Trứ thế ấy, thấy chưa."

    X. RANH GIỚI RUỘNG ĐẤT CỦA TRƯỜNG QUI THIỆN:

    Phiên họp ngày 12-11-Canh Dần (dl 20-12-1950) gồm Đại diện các cơ quan Hành Chánh, Phước Thiện, Bàn Cai Quản QT, Cơ Thánh Vệ và quân đội, để ấn định ranh giới ruộng đất dành cho các công quả của Trường Qui Thiện canh tác.

    Ranh giới ấy được các cơ quan trong phiên họp thống nhứt quyết định như sau:

    - Từ con lộ Kiểm đi ra Bến Kéo trở xuống Qui Thiện, bề dài con lộ nầy tại lộ Khải Hòa đến ngã tư Trảng Nổ, thuộc lô rừng số 48, đo đặng 2600 mét.

    - Lộ Kiểm dưới đi ra Giang Tân, tại lộ Khải Hòa đến ranh mới trong lô rừng 48 và 56, đo đặng 2600 mét.

    - Cặp theo đường lộ Trung Hòa, từ lộ Kiểm đi Bến Kéo, đến cầu suối Qui Thiện qua Cây Chò, đo đặng 2900 mét.

    - Trước Đền Thờ Phật Mẫu qua Suối Trảng Thỏ lớn, Trảng Thỏ nhỏ, tới đồn số 14 của Cơ Thánh Vệ đóng.

    XI. CHUYỂN TRƯỜNG QUI THIỆN THÀNH ĐỊA LINH ĐỘNG - TRÍ GIÁC CUNG.

    - Ngày 12-6-Tân Mão (dl 15-7-1951), Hội Thánh PT rút ông Chí Thiện Lê Văn Trung về Văn phòng Hội Thánh PT.

    - Ngày 14-10-Tân Mão (dl 12-11-1951), Hội Thánh PT bổ 3 vị Giáo Thiện lãnh nhiệm vụ cai quản ở Trường QT gồm:

    · Giáo Thiện Trần văn Ninh, coi Lễ Vụ.

    · Giáo Thiện Trần Văn Liễu, coi Công Vụ.

    · Giáo Thiện Lại Văn Phu, coi Hộ Vụ.

    - Ngày 14-10-Nhâm Thìn (dl 30-11-1952), Đức Hộ Pháp ra khẩu lịnh cho ông Đạo Nhơn Dương Văn Khuê xuống cai quản Trường Qui Thiện.

    "Do Thánh ý của Đức Hộ Pháp dạy ông Đạo Nhơn Dương Văn Khuê triệu tập Đại Hội toàn thể tín đồ Trường QT tại Hậu Điện Báo Ân Đường ngày 11-11-Giáp Ngọ (dl 5-12-1954). Bảng Phúc trình và Vi Bằng Hội Nhóm được dâng lên Đức Hộ Pháp. Đức Ngài điều chỉnh danh từ và thành phần Ban Trị Sự và các cơ sở (có bút tích sửa chữa).

    Ông Tổng Quản và Ban Trị Sự Địa Linh Động vâng lịnh thật hành kể từ ngày 5-12-Giáp Ngọ (dl 29-12-1954) do Huấn Lịnh số 285/VP-HP." (Trích trong Tài Liệu để Tu Học của Trường QT, in năm Quí Sửu - 1973, trang 15)

    Như vậy, chúng ta thấy rằng Đức Hộ Pháp đã chánh thức chuyển đổi "Trường Qui Thiện" thành một cơ sở Tịnh Thất là "Địa Linh Động - Trí Giác Cung" vào ngày 5-12-Giáp Ngọ (dl 29-12-1954) do Huấn Lịnh số 285/VP-HP.

    Phận sự của Trường Qui Thiện đến đây chấm dứt.

    Vị Tổng Quản Ban Trị Sự đầu tiên của Địa Linh Động Trí Giác Cung là ông Đạo Nhơn Dương Văn Khuê. (Yêu cầu xem tiếp: Trí Giác Cung, vần Tr)

    TÓM TẮT về TRƯỜNG QUI THIỆN:

    Trong thời gian Đức Phạm Hộ Pháp bị đồ lưu hải ngoại, ông Giáo Thiện Đinh Công Trứ qui tụ các thệ hữu Minh Thiện Đàn ở Phú Mỹ lên Tây Ninh mua đất ở Bàu Sen xã Trường Hòa thành lập cơ sở tu hành, gọi là Trường Qui Thiện.

    Ngày khởi lập Trường Qui Thiện là ngày khởi công cất Qui Thiện Đường, là ngày 26-9-Quí Dậu (dl 24-10-1943).

    Sau đó cất thêm các cơ sở phước thiện như: Nhà Minh Thiện, Khách Thiện đường, Học đường, Y tế, Bảo Sanh, Dưỡng đường, cơ sở Nông Tang, Công nghệ, Thương mãi.

    Đặc biệt ông Trứ cất trong Trường QT một Đền Thờ Phật Mẫu, thờ Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên Nương và Bạch Vân Động chư Thánh. Đền thờ nầy tuy còn bằng cây lợp lá, nhưng đây là Đền Thờ Phật Mẫu đầu tiên của Đạo Cao Đài.

    Đức Hộ Pháp cho phép làm lễ Khánh Thành Đền Thờ Phật Mẫu tại Trường Qui Thiện vào ngày 16-7-Mậu Tý (1948).

    Một tháng sau, Đức Hộ Pháp cho phép Trường QT tổ chức cúng lễ Hội Yến DTC tại Đền Thờ Phật Mẫu nầy lần đầu tiên vào đêm 14-8-Mậu Tý, sau khi cúng xong Đại lễ Đức Phật Mẫu, và lệ cúng Hội Yến DTC nầy tại Đền Thờ Phật Mẫu Trường QT được duy trì hằng năm từ năm 1948 đến nay.

    Ông Đốc Trường QT Đinh Công Trứ bị tử nạn ngày 25-5-Kỷ Sửu (dl 21-6-1949).

    Sau đó, Trường Qui Thiện được Đức Hộ Pháp ban Huấn Lịnh chuyển đổi thành Địa Linh Động - Trí Giác Cung vào ngày 5-12-Giáp Ngọ (dl 29-12-1954).

    XII. TIỂU SỬ ÔNG ĐINH CÔNG TRỨ (1903-1949)

    Ông Đinh Công Trứ sanh năm Quí Mão (1903) tại làng Phú Mỹ, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho.

    Ngày rằm Trung nguơn 17-7-Đinh Mão (dl 17-6-1927), ông Trứ nhập môn vào Đạo Cao Đài. Giấy nhập môn còn lưu lại cấp ngày 11-11-Ất Hợi (dl 6-12-1935) do Giáo Sư Thượng Minh Thanh, chủ Thánh Thất Khổ Hiền Trang ký tên.

    Ngày 14-10-Đinh Mão (dl 8-11-1927), ông Trứ chấp cơ tại tư gia của ông ở làng Phú Mỹ, được Đức Lý Giáo Tông giáng dạy lập Minh Thiện Đàn tại nhà ông.

    Sau đó, ông Đinh Công Trứ và ông Lê Văn Trung (nhà cũng ở gần đó) được Đức Lý Giáo Tông sử dụng làm cặp phò loan chánh thức tiếp nhận các Thánh giáo của các Đấng thiêng liêng tại Minh Thiện Đàn. (Xem chi tiết: Minh Thiện Đàn, vần M)

    Ngày 28-2-Kỷ Tỵ (dl 7-4-1929), ông Đinh Công Trứ được Đức Phạm Hộ Pháp chấm thọ Đào Viên Pháp tại Thánh Thất Khổ Hiền Trang, Phú Mỹ, cùng một lượt với 23 vị Đạo hữu khác của Minh Thiện Đàn.

    Ngày 13-11-1931 (âl 4-10-Tân Mùi), Ông Trứ và ông Lê Văn Trung được Đức Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông chứng giấy Thông Hành đi hành đạo nơi các tỉnh: Mỹ Tho, Bạc Liêu, Rạch Giá, Long Xuyên và Sóc Trăng.

     

    ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

    GIẤY THÔNG HÀNH CHO ĐI LO VIỆC ĐẠO

    (Feuille de route)

    Số: 12

    Đạo hữu: ĐINH CÔNG TRỨ làm chức Tín đồ.

    Phải đến tại làng Khổ Hiền Trang, Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho mà công quả xem xét cách hành đạo tại: Mỹ Tho, Bạc Liêu, Rạch Giá, Long Xuyên, Sóc Trăng.

    Mỗi khi đến làng nào thì Chánh hay Phó Trị Sự và Thông Sự sở tại phải ký tên giấy nầy chứng ngày đến nơi và ngày ra đi về hay là đi qua nơi khác.

    Tòa Thánh, le 13 Novembre 1931.
    QUYỀN GIÁO TÔNG

    (ấn ký)

    Thượng Trung Nhựt

    HỘ PHÁP

    (ấn ký)

    Phạm Công Tắc

    Chứng kiến hồi đi:

    Phú Mỹ, le 10-10-Tân Mùi (1931)

    (ký tên đóng dấu)

    Thượng Minh Thanh

     

    Năm 1936 (Bính Tý), ông Trứ đắc phong Lễ Sanh Giáo Thiện, được Đức Hộ Pháp bổ đi làm Đầu Họ Phước Thiện tỉnh Long Xuyên.

    Năm 1938 (Mậu Dần), ông được đổi về làm Đầu Họ PT tỉnh Tây Ninh.

    Năm 1939 (Kỷ Mão), ông lãnh lịnh tạm quyền Thủ Bổn Phạm Môn.

    Năm 1940 (Canh Thìn), ông lãnh phận sự coi Khách Thiện Đường tại Tòa Thánh.

    Ngày 3-1-Quí Mùi (dl 7-2-1943), ông Trứ cùng với hai vị Lễ Sanh Trừu và Giải bị quân đội Nhựt Bổn bắt đem về Sài Gòn tra khảo vì có người tố cáo ba ông chống Nhựt.

    Ngày 12-6-Quí Mùi (dl 13-7-1943), Nhựt Bổn thả ba ông ra. Thời gian ba ông bị Nhựt giam cầm là 5 tháng 10 ngày.

    Ngày 26-9-Quí Mùi (dl 24-10-1943) ông Đinh Công Trứ qui tụ một số thệ hữu trong Minh Thiện Đàn lên Tây Ninh mua đất ở Bàu Sen xã Trường Hòa, khởi lập Trường QT để làm cơ sở phước thiện và tu hành. Ông Trứ trở thành Chủ Trường QT.

    Ngày 19-2-Bính Tuất (dl 22-3-1946), giữa lúc Việt Minh kháng chiến chống Pháp, ông cùng với 8 thệ hữu dùng thuyền đi qui tụ các bạn đạo về Trường Qui Thiện dưới ngọn Bạch Kỳ Nhan Uyên, ông và các bạn ông bị quân đội Pháp bắt vì nghi ông theo Việt Minh, định đem xử bắn, nhưng nhờ hồng phước của Đức Chí Tôn khiến có người đến cứu nên thoát chết.

    Ông trở về Trường QT lo xây dựng thêm cơ sở, và đặc biệt tạo được một Đền Thờ Phật Mẫu. Đây là Đền Thờ Phật Mẫu đầu tiên của Đạo Cao Đài, được Khánh Thành ngày 16-7-Mậu Tý (dl 20-8-1948) và sau đó Đức Hộ Pháp cho phép Đền Thờ nầy tổ chức cúng Lễ HộiYến DTC vào đêm 14-8-Mậu Tý.

    Đêm 25-5-Kỷ Sửu (dl 21-6-1949), lúc 10 giờ 35 tối, ông Đốc Trường Đinh Công Trứ bị ám sát chết, ông hưởng 47 tuổi.

    Khi còn ở Minh Thiện Đàn Phú Mỹ, Đức Lý Giáo Tông ban Đạo hiệu cho ông Trứ là: Hoằng Nhựt Tăng Đạo Sĩ.

    Khi ông Trứ qui vị, Đức Hộ Pháp ban tặng cho ông là: Hoằng Thông Tăng Đạo Sĩ.

    BÀI GIÁNG CƠ của ÔNG ĐINH CÔNG TRỨ:

    Phò loan:

    Luật Sự Nhung và Hưởng.

    Hầu bút:

    Luật Sự Khỏe.

    Đàn cơ tại Qui Thiện Đường đêm 26-10-Canh Dần

    (dl 5-12-1950), lúc 20 giờ 45.

    ĐINH CÔNG TRỨ

    Con cúi đầu chào mẫu thân.

    Xin chào Em Đào và các bạn nam nữ.

    Xin nhờ Em bạch giùm với Sư Phụ, Anh xin kính lời bái tạ ơn Người đã cho phép Anh về giáng cơ.

    Thưa mẫu thân, con rất đau lòng cảnh măng tàn mà tre còn tươi tốt, nhưng biết sao, thiêng liêng đã định, vậy cũng đừng trách kẻ vô lương. Sự sanh ly tử biệt không ai thoát khỏi, chỉ khác nhau ở chỗ tử bịnh hay tử nạn mà thôi. Xin thân mẫu chớ vì con mà hao tổn tinh thần.

    Em Đào! Em ráng phụng dưỡng mẹ già, cô cùng 3 con thay thế anh. Phải, gánh nặng anh để lại cho Em, anh rất khổ, nhưng cũng đành ngậm tủi mà thôi. Còn Em có hỏi điềm mộng, phải, chính anh đó Em à! Trong thời gian anh vắng bóng, anh vẫn lai vãng cùng thân mẫu, Em, mấy con cùng các bạn.

    Chị hai Hậu, chính tôi đó chị ạ.

    Em Đào, Em hãy nung chí, đừng vì chút khổ sầu mà phai lảng đó nghe Em. Luôn luôn anh giúp đỡ Em từng bước. Ráng dạy dỗ mấy con cho chúng nên người. Để anh họa mấy bài thi:

    HỌA:

    Bài thứ 1

    Bước Đạo khuyên em phải ráng dò,

    Đừng vì bận bịu để buồn xo.

    Sử kinh nối chí khươi đèn huệ,

    Đạo đức trông gương nhúm lửa lò.

    Nợ thế phủi tay chi có sợ,

    Bụi trần dính áo khá nên lo.

    Dẫn dìu con dại, Em nung chí,

    Hiền mẫu từ đây cố gắng mò.

    Bài thứ 2

    Gái hạnh tiết trinh để đứng đầu,

    Đêm đông đâu kể mảnh hàn bâu.

    Lửa hương thay trọn khuây niềm nhớ,

    Tình nghĩa gắng sâu bỏ nỗi sầu.

    Thương bạn tưởng bầy lòng nhắc nhở,

    Theo Thầy vì Đạo trí không đâu.

    Thế tình ơi hỡi lo chi mệt,

    Hãy để tâm trung đến đạo mầu.

    Bài thứ 3

    Thâu gồm nhơn loại vẫn là đây,

    Biến dữ nên lành cũng chốn nầy.

    Khuyên chớ ưu sầu xa trí cảnh,

    Xin đừng bận bịu tưởng vân đài.

    Thơm tho khí tiết lên chiều gió,

    Rỡ rỡ danh hiền đến bóng mây.

    Hãy ráng quên đời khuây nỗi nhớ,

    Đôi lời ly biệt tả nên đây.

    Em coi lại trúng vần chăng?

    Đào nói: Dạ trúng.

    Khóc! . . . Khanh, Lộc, Thọ, ba con ôi! Tình máu thịt phải phân chia! Ba con lại đây cha hôn. (Đưa cần cơ lại đụng đầu hai đứa con). Còn Thọ đâu? Đào đáp: Dạ nó ngủ.

    Anh gởi hôn nó, Em trao lại giùm.

    Để cha họa lại Bài thi của ba con:

    HỌA:

    Đau trẻ nay đà cách biệt cha,

    Để chân cảnh trí, lệ chan hòa.

    Ngập ngừng muốn gọi không nên giọng,

    Vận kiếp âu đành phải thở ra.

    Khóc . . . Em muốn xin tên cho Em, ba con, cùng Bảy, Bạch, chị Ca. Được, tên đây là danh hiệu thôi, chớ không phải là đạo hiệu:

    Em là ANH ĐÀO, con Khanh là THỤY KHANH, con Lộc là THỤY ĐỨC, con Thọ là THỤY HƯƠNG, Bảy là MỘC LAN, Bạch là THÙY NHÂN, chị Ca là THANH TÂM.

    Cháu Xinh, muốn xin thi về vận mạng, chú không thể cho.

    Bây giờ, xin các bạn nam nữ yên lặng, tôi xin có đôi lời cùng quí bạn:

    Quí Bạn cũng vẫn biết sự hành thiện là căn bổn để đưa chúng sanh trở về cùng Thầy và Đức Mẹ. Sự đau khổ của đời do đâu mà hàn gắn, cũng chỉ do nơi lòng từ thiện của các bạn mà nên. Đời khổ não vì nạn chiến tranh, chỉ vì miếng đỉnh chung mà đành quên xương máu, còn chúng ta đây là những kẻ vì đời mà hy sinh tâm chí, cho đến miếng ăn thức mặc cũng bỏ một bên. Có vậy mới mong kêu gọi nhơn sanh tùng lương cải ác. Thân của chúng ta đây là thân của con vật để sai khiến, bởi Đức Chí Tôn và Phật Mẫu càng đổ lụy bao nhiêu thì thân chúng ta lại càng phải quên nhọc nhằn bấy nhiêu. Có vậy mới mong trả trọn hiếu cùng Đại Từ Phụ, cùng Đại Từ Mẫu đặng.

    Chúng ta đã lãnh trách nhiệm bồi bổ đời sống của nhơn sanh thì chúng ta phải nhớ công quả là gốc. Đây là Trường Qui Thiện tức là nơi để qui tụ các vị thiện lương.

    Vậy thì chúng ta nơi đây phải tỏ rõ sự thiện lương trước nhứt. Các bạn nên nhớ rằng có công mới có đức, có đức mới đắc vị. Muốn cho đức được bền, các bạn khá nên trau giồi tinh thần cho thanh cao. Phải luôn luôn nhớ rằng mình đây là kẻ tôi đòi để cho nhơn sanh ứng dụng, chớ vì chút hao mòn về thể phách mà nỡ quên đường đi trong sáng của chúng ta.

    Các bạn hãy đặt trọn đức tin nơi Sư phụ, thì ngày vẻ vang cũng chẳng ở đâu xa.

    Xin nhắn lời cùng bạn Trung rằng, bạn hãy khá lưu tâm mà dìu dắt các bạn cho ra thiệt tướng. Còn có những bạn đã phải chí hy sinh, đó cũng do mạng lý, vì nơi đây là Qui Thiện, nếu không thiện ắt chẳng qui, các bạn ráng nhớ.

    Tôi chỉ có bấy nhiêu lời nhắn nhủ cùng quí bạn nam nữ. Xin nhớ quí bạn chuyển lời tôi kính bái Sư phụ, Sư bá, Sư cô.

    Tôi xin kiếu. THĂNG.

    HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

    CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

    CQPT: Cơ Quan Phước Thiện.

     

  • Qui tịch

    歸寂

    A: To die.

    P: Mourir.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Tịch: yên lặng.

    Qui tịch là trở về cõi yên lặng, ý nói chết, linh hồn trở về cõi thiêng liêng.

    Đây là từ ngữ thường dùng bên Phật giáo: chữ TỊCH dùng để chỉ sự chết của một nhà sư.

     

  • Qui Tiên

    歸仙

    A: To return to the paradise.

    P: Retourner au Paradis.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Tiên: cõi Tiên, cảnh Tiên.

    Qui Tiên là trở về cõi Tiên, ý nói chết, linh hồn lên cõi Tiên.

     

  • Qui ư Cực Lạc

    歸於極樂

    A: To return to the Nirvana.

    P: Retourner au Nirvana.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Ư: tại, nơi. Cực Lạc: nơi hoàn toàn an vui hạnh phúc. Đó là cõi Cực Lạc Niết Bàn hay CLTG.

    Qui ư Cực Lạc là trở về nơi cõi Niết Bàn, tức là đắc đạo, rời bỏ xác trần, linh hồn lên cõi Niết Bàn.

    DLCK: Năng độ chúng sanh qui ư Cực Lạc, tất đắc giải thoát.

    CLTG: Cực Lạc Thế giới.

    DLCK: Di Lạc Chơn Kinh.

     

  • Qui vị

    歸位

    A: To die.

    P: Mourir.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Vị: ngôi vị.

    Qui vị trở về ngôi vị cũ nơi cõi thiêng liêng, ý nói chết, linh hồn trở lại ngự trên ngôi vị cũ.

     

  • Qui y

    歸依

    A: To follow Buddhism.

    P: Suivre le Boudhisme.

    Qui: Trở về, chịu về theo. Y: nương theo.

    Qui y là đem mình nương theo Phật đạo.

    Nghĩa tổng quát của Qui y là theo đạo tu hành.

    Người đời, muốn theo đạo Phật thì đến chùa cho vị Hòa Thượng trụ trì làm lễ thọ " Tam qui, Ngũ giới"

    Tam qui là Qui y Tam bảo, nghĩa là: Qui y Phật, Qui y Pháp, Qui y Tăng. Ngũ giới là Ngũ giới cấm.

    Trong Kinh GiácThế của Minh Lý Đạo có giải Tam qui:

    Qui y Phật:

    Phải giác ngộ học theo hạnh Phật,

    Bằng muội mê súc vật trần gian.

    Được vẻ vui thiệt nẻo Thiên đàng,

    Chác phiền não là hàng Địa ngục.

    Qui y Pháp:

    Làm việc chánh gọi là Pháp vậy,

    Theo Bàng môn nẻo ấy là tà.

    Đạo vô vi thiệt Pháp cao xa,

    Hữu vi ấy sanh ra dối giả.

    Qui y Tăng:

    Tánh ở chơn ấy gọi là Tăng,

    Lòng thanh tịnh mới rằng tu niệm.

    Còn mê muội chưa tường lý nhiệm,

    Lóng sạch lòng thúc liễm tu hành.

    Theo Chánh pháp của Phật, chỉ căn cứ ở công đức bề trong tức ở chỗ minh tâm kiến tánh. Phật Pháp Tăng vốn ở nơi bổn tánh mình, chớ không phải ở nơi ngoài:

    · Giữ lòng giác ngộ tức là qui y Phật,

    · Giữ lòng chơn chánh tức là qui y Pháp,

    · Giữ lòng thanh tịnh tức là qui y Tăng.

    Nếu trái với Tâm pháp nầy, ấy là qui y (nương theo) Bàng môn ngoại đạo.

    TNHT: Tuổi ấy qui y nhắm đã vừa.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • QUÍ

    1. QUÍ: 貴 Sang trọng, có giá trị cao, gọi tôn người khác.

    Td: Quí danh, Quí hóa, Quí nhân.

    2. QUÍ: 季 Cuối, út.

    Td: Quí nam, Quí thu.

     

  • Quí danh

    貴名

    A: Your honorable name.

    P: Votre nom honorable.

    Quí: Sang trọng, có giá trị cao, gọi tôn người khác. Danh: tên.

    Quí danh hỏi tên người đang nói chuyện với mình với ý lịch sự và tôn trọng.

    Td: Xin ông cho biết quí danh.

     

  • Quí hóa

    貴貨

    A: Precious, kind.

    P: Précieux, bon.

    Quí: Sang trọng, có giá trị cao, gọi tôn người khác. Hóa: hàng hóa, đồ vật.

    Quí hóa là đồ vật quí báu.

    TNHT: Đấng Chí Tôn đã gieo giống quí hóa rồi thì cần phải vun trồng cho cội sởn sơ.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quí hồ tinh, bất quí hồ đa

    貴乎精,不貴乎多

    A: Not quantity, but quality.

    P: Non quantité, mais qualité.

    Quí: Sang trọng, có giá trị cao, gọi tôn người khác. Hồ: trợ từ. Tinh: phần tốt đẹp nhứt, chỉ về phẩm chất. Đa: nhiều, chỉ về số lượng.

    Quí hồ tinh: Cái quí ở chỗ phẩm chất.

    Bất quí hồ đa: Không quí về số lượng nhiều.

    Ý nói: Quí trọng về phẩm chất chớ không quí trọng về số lượng. Nói về thực phẩm: Một chén mà ngon còn hơn một nồi mà dở.

     

  • Quí mầu

    A: Precious and mysterious.

    P: Précieux et mystérieux.

    Quí: Sang trọng, có giá trị cao, gọi tôn người khác. Mầu: mầu nhiệm, huyền diệu.

    Quí mầu là quí báu và mầu nhiệm.

    TNHT: Gieo giống quí mầu thì công ấy chẳng chi sánh được.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quí nam - Quí nữ

    季男 - 季女

    A: The youngest son - The youngest daughter.

    P: Le dernier fils - La fille dernière-née.

    Quí: Cuối, út. Nam: con trai. Nữ: con gái.

    Quí nam là con trai út. Quí nữ là con gái út.

     

  • Quí nhân phò trợ

    貴人扶助

    Quí: Sang trọng, có giá trị cao, gọi tôn người khác. Nhân: người. Phò trợ: giúp đỡ.

    Quí nhân, hay Quới nhân, là người tôn quí.

    Quí nhân phò trợ là người tôn quí giúp đỡ mỗi khi gặp phải điều thắt ngặt.

     

  • Quí xuân - Quí thu

    季春 - 季秋

    A: The last month of Spring - The last month of Autumn.

    P: Le dernier mois du Printemps - Le . . . . de l'Automne.

    Quí: Cuối, út. Xuân: mùa xuân. Thu: mùa thu.

    Mỗi mùa có 3 tháng, mỗi tháng được gọi tên theo thứ tự là: mạnh, trọng, quí. Mạnh là tháng đầu, Trọng là tháng giữa, Quí là tháng cuối.

    Mùa xuân có 3 tháng: giêng, hai, ba.

    · Tháng giêng đầu mùa xuân được gọi là Mạnh xuân.

    · Tháng hai giữa mùa xuân được gọi là Trọng xuân.

    · Tháng ba cuối mùa xuân được gọi là Quí xuân.

    Vậy:

    Quí xuân là tháng cuối mùa xuân: tháng ba.

    Quí thu là tháng cuối mùa thu: tháng chín.

     

  • QUỈ

    1. QUỈ: 鬼 Ma quỉ.

    Td: Quỉ Dạ xoa, Quỉ khí.

    2. QUỈ: 詭 Dối trá, lừa dối.

    Td: Quỉ quyệt, Quỉ kế.

     

  • Quỉ Dạ xoa

    鬼夜叉

    Quỉ: Ma quỉ. Dạ xoa: do phiên âm từ tiếng Phạn: Yakchas.

    Quỉ Dạ xoa là loài quỉ hung ác, có hình thù kỳ dị, hoặc nhiều tay, nhiều mắt, hoặc nhiều chơn, có nanh dài chìa ra bén nhọn như đao. Chúng thích hãm hại người.

    Ở cõi Địa ngục, quỉ Da xoa cầm các thứ khí giới để hành hình tội nhân.

    KSH: Quỉ Dạ xoa đánh, vả, kẹp, cưa.

    KSH: Kinh Sám Hối.

     

  • Quỉ hồn - Quỉ nhân

    鬼魂 - 鬼人

    Quỉ: Ma quỉ. Hồn: linh hồn. Nhân: người.

    Quỉ hồn là những linh hồn thuộc loài quỉ.

    Quỉ nhân là người do quỉ hồn đầu kiếp lên làm người.

    Những người sống nơi cõi trần có tính tình ác độc, làm nhiều việc gian ác hại người, phạm Thiên điều, khi chết, linh hồn bị đọa vào quỉ vị, thuộc loài quỉ.

    PMCK:

    Nguơn linh hóa chủng quỉ hồn nhứt thăng.

    TNHT: Bần đạo chẳng kể là nguyên nhân, hóa nhân hay là quỉ nhân, ví biết lập công thì thành đạo.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

    PMCK: Phật Mẫu Chơn Kinh.

     

  • Quỉ khí

    鬼氣

    A: The evil spirit.

    P: L'esprit errant.

    Quỉ: Ma quỉ. Khí: phần vô hình, ý nói: chơn thần, linh hồn.

    Quỉ khí đồng nghĩa với Quỉ hồn, là linh hồn của quỉ.

    PMCK: Trụ căn quỉ khí cửu tuyền.

    PMCK: Phật Mẫu Chơn Kinh.

     

  • Quỉ ma

    鬼魔

    A: The demons.

    P: Les démons.

    Quỉ: Ma quỉ. Ma: cùng loài với Quỉ.

    Những linh hồn mà trong kiếp sanh nơi cõi trần đã làm nhiều điều ác độc, phạm Thiên điều, bị đọa làm quỉ ma.

    Đám quỉ ma rất ghét người tu, chúng luôn luôn tìm cách dụ dỗ người tu cho sa ngã để làm quỉ ma như chúng nó, hoặc nó phá phách, đe dọa cho sợ hãi mà bỏ đường tu.

    Phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung chơn chánh và sự sáng suốt thì mới có thể vượt qua những cạm bẫy do bọn quỉ ma tạo ra, mới có thể vượt lên trên mà đắc đạo.

    Hễ làm ác thì thành quỉ ma, còn làm lành thì trở thành Tiên Phật. Như thế, Quỉ ma là lực lượng đối kháng với Tiên Phật. Hai lực lượng ấy rất cần thiết trong CKVT, tạo thành hai thế lực đối kháng nhau, thúc đẩy sự tiến hóa của Càn Khôn, làm cho Càn Khôn luôn luôn tiến hóa.

    KGO: Noi chơn truyền khử quỉ trừ ma.

    KGO: Kinh Giải Oan.

    CKVV: Càn Khôn Vạn vật.

     

  • Quỉ mị

    鬼媚

    A: The evil spirits.

    P: Les esprits mauvais.

    Quỉ: Ma quỉ. Mị: quyến rũ, mê hoặc người để làm hại người.

    Quỉ mị là loài quỉ làm mê hoặc người để hại người.

    TNHT: Thầy đã nói bầy hổ lang, lũ quỉ mị đã sẵn bên mình của mỗi đứa, mà con lớn nhỏ gì cũng chẳng để ý đến.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quỉ quái tinh ma

    鬼怪精魔

    A: The demons, devils.

    P: Les démons, les diables.

    Quỉ: Ma quỉ. Quái: yêu quái. Tinh: yêu tinh.

    Quỉ quái tinh ma là chỉ chung loài quỉ ma, tà tinh yêu quái, luôn luôn tìm cách phá phách hay làm hại người.

    TNHT: Còn mưu chước của quỉ quái tinh ma là mưu kế của Lão để phân biệt chơn giả, vàng thau, cho phẩm giá....

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quỉ quyền

    鬼權

    A: The power of the demons.

    P: Le pouvoir des démons.

    Quỉ: Ma quỉ. Quyền: quyền hành.

    Quỉ là quyền hành của loài quỉ.

    Cái quyền hành đó có được là do Đức Chí Tôn ban cho nó để nó thử thách người tu, khảo duợt người tu để xem chơn giả. Nếu người tu nào vượt qua được thì mới xứng đáng đắc quả.

    BĐNĐ: Ngày nay Lão định trừ diệt quỉ quyền, không cho rối loạn nền Đạo mà thử thách Thiên phong nữa.

    BÐNÐ: Bát Ðạo Nghị Ðịnh.

     

  • Quỉ quyệt

    詭譎

    A: Crafty.

    P: Astucieux.

    Quỉ: Dối trá, lừa dối. Quyệt: xảo trá.

    Quỉ quyệt là xảo trá, biến trá không lường.

    TNHT: Dùng hết mưu chước quỉ quyệt thâu đoạt cho đặng lợi lộc quyền thế cho nhiều.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quỉ sứ

    鬼使

    A: Demon of Hell.

    P: Démon de l'Enfer.

    Quỉ: Ma quỉ. Sứ: kẻ dùng để sai khiến.

    Quỉ sứ là đám quỉ ở Âm phủ dùng làm quân lính để sai khiến.

     

  • Quỉ tai

    鬼災

    Quỉ: Ma quỉ. Tai: tai họa.

    Quỉ tai là tai họa do quỉ gây ra.

    DLCK: Năng trừ ma chướng quỉ tai, năng cứu khổ ách....

    DLCK: Di Lạc Chơn Kinh.

     

  • Quỉ vị

    鬼位

    A: Hierarchy of Satan.

    P: Hiérarchie de Satan.

    Quỉ: Ma quỉ. Vị: địa vị, chức vị.

    Quỉ vị là các chức vị trong hệ thống tổ chức của loài quỉ.

    TNHT: Còn phẩm trật quỉ vị, cũng như thế ấy, nó noi chước Thiên cung mà lập thành quỉ vị, cũng đủ các ngôi, các phẩm, đặng đày đọa các con, hành hài các con, xử trị các con.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quỉ vô thường

    鬼無常

    A: The changeful demon.

    P: Le démon changeant.

    Quỉ: Ma quỉ. Vô thường: không luôn luôn như vậy, tức là biến đổi luôn luôn.

    Quỉ vô thường là loài quỉ có hình thù biến đổi luôn luôn.

    KSH:

    Lúc chung mạng dứt hơi hồn xuất,

    Quỉ vô thường sẵn chực đem đi.

    KSH: Kinh Sám Hối.

     

  • Quỉ vương

    鬼王

    A: King of demons, Satan.

    P: Roi des démons, Satan.

    Quỉ: Ma quỉ. Vương: vua, chúa.

    Quỉ vương là vua loài quỉ, là chúa quỉ.

    Quỉ vương còn được gọi là Kim Quang Sứ. (Xem chữ nầy)

    TNHT: Quỉ vương đến trước Bạch Ngọc Kinh xin hành xác và thử thách các con. Thầy chẳng cho hành xác....

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quị lụy

    跪累

    Quị: quì xuống. Lụy: lòn cúi chiều chuộng.

    Quị lụy là hạ mình để làm vừa lòng người khác với ý cầu cạnh hay van xin một điều gì.

    TNHT: Đồng với nhau cả quốc dân mà quị lụy khẩn cầu coi Trời đoái tưởng đến chăng?

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • QUỐC

    QUỐC: 國 Nước, quốc gia.

    Td: Quốc đạo, Quốc sĩ.

     

  • Quốc đạo - Quốc giáo

    國道 - 國敎

    A: The national religion.

    P: La religion nationale.

    Quốc: Nước, quốc gia. Đạo: tôn giáo. Giáo: tôn giáo.

    Quốc đạo tức là Quốc giáo, là nền tôn giáo chánh thức của một nước.

    Td: Đạo Phật là quốc đạo của nước Cao Miên.

    Đạo Cao Đài là quốc đạo của dân tộc Việt Nam, vì Đạo Cao Đài được Đức Chí Tôn mở ra trên đất nước Việt Nam và cho dân tộc VN.

    TNHT:

    Từ thử nước Nam chẳng đạo nhà,

    Nên Ta gầy dựng lập nên ra.

    Đó là lời xác nhận của Đức Chí Tôn Thượng Đế.

    Trên đất nước VN hiện nay có rất nhiều tôn giáo như: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, đạo Tin Lành, đạo Bà La Môn, v.v... Những tôn giáo nầy đều mở ra ở các nước ngoại quốc và được truyền vào VN, được người VN chấp nhận và tôn sùng.

    Nhưng, riêng nước VN, kể từ khi lập quốc đến nay, chưa có một tôn giáo được khai mở trên đất nước VN, cho dân tộc VN. Ngày nay, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế đến ban thưởng cho dân tộc VN, bằng cách mở ra trên đất nước VN, cho người VN một nền Đại Đạo gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, hay nói vắn tắt là Đạo Cao Đài, do Đấng Thượng Đế tá danh Cao Đài làm Giáo Chủ.

    Thật là vinh hạnh cho dân tộc Việt Nam!

    TNHT: "Thầy đã lập Đạo nơi cõi Nam nầy là cốt để ban thưởng một nước từ thử đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh nộ của Thầy. Thầy lại tha thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh diệu. Từ tạo Thiên lập Địa, chưa nước nào dưới quả địa cầu 68 nầy đặng vậy. Cốt để ban thưởng các con thì các con hưởng phần hơn đã đáng, lẽ nào Thầy đã để phần nhiều cho các nước khác sao?"

    "Thầy có hội chư Tiên Phật lại mà thương nghị về sự lập Đạo tại Đại Nam Việt quốc. Các con khá nghe lời Thầy dặn, chớ khá nghịch lẫn nhau, phải đồng một lòng một dạ mà lo chấn hưng đạo đức."

    "Vốn Thầy tạo lập nền Chánh giáo cho dân Nam Việt chẳng phải là việc nhỏ đâu. Các con ví biết Đạo là quí thì phải ân cần thận trọng, đợi đến ngày thành tựu các con mới thấy rõ Thiên cơ thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi nầy sao đặng, vì mỗi việc khó khăn trắc trở là lúc sơ khai."

    "Từ đây trong nước Nam duy có một Đạo chơn thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là Quốc Đạo, hiểu à!"

    Trong bài thi Đức Chí Tôn giáng, Đức Chí Tôn bảo chép lại bằng Hán văn gởi cho vua Bảo Đại lúc đó, có hai câu: (Xem chữ: Nam phong, vần N)

    "Quốc Đạo kim triêu thành Đại Đạo,

    Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong."

    Nghĩa là:

    Nền Quốc Đạo Cao Đài ngày nay biến thành một nền Đại Đạo cho cả hoàn cầu,

    Nền phong hóa của nước Việt Nam ngày ấy sẽ biến thành nền phong hóa của nhơn loại.

    "Nơi dãy đất VN chúng ta đã tám mươi mấy năm khổ nạn, dân sanh sống dưới quyền lệ thuộc, hầu hết đã gần quên tinh thần cổ truyền của tổ phụ để lại.

    May thay cho nòi giống Lạc Hồng, là không đến nỗi phải chịu mất tinh thần cố hữu ấy, nên được Đức Chí Tôn dùng dãy đất nầy làm Thánh Địa và định cho dân tộc Việt Thường hưởng hồng ân của Ngài trước nhứt, rồi mới cho nhơn loại trên mặt địa cầu nầy hưởng sau.

    Theo Thánh ý của Đức Chí Tôn là muốn dùng dân tộc VN làm gương mẫu cho toàn cầu, là chỗ mà thiên hạ cho là thấp hèn, bạc nhược, lại được Đức Chí Tôn đem lên ngang hàng cùng vạn bang, mà còn cho trổi hơn mặt tinh thần, do đó mới kêu là Quốc Đạo." (Trích Thánh giáo của Đức Cao Thượng Phẩm tại Báo Ân Từ ngày 1-10-Canh Dần, phò loan: Luật Sự Nhung - Hưởng)

    TĐ ĐPHP: (tại Đền Thánh đêm 30-9-Đinh Hợi, 1947)

    "Hai chữ Quốc Đạo lần đầu, Chí Tôn viết ra làm cho Bần đạo mờ mịt. Cũng vì hai chữ Quốc Đạo mà Phạm Công Tắc chết năm 35 tuổi, thí thân đeo đuổi làm cho ra thiệt tướng.

    Ôi! Hai chữ Quốc Đạo là một vật mà Bần đạo tiềm tàng rồi mới hiểu. Khởi điểm biết thương nòi giống, biết thương tổ quốc, đeo đuổi mất còn với cái điều khát khao từ buổi thanh xuân đó vậy. Tự biết khôn dĩ chí gặp Đạo năm 35 tuổi, Bần đạo thấy sao mà phải khao khát thèm lạt, tại làm sao Chí Tôn biết thiếu thốn nơi tinh thần điều ấy mà cho Bần đạo.

    Bần đạo ban sơ nghi hoặc, có lẽ một Đấng có quyền năng thiêng liêng biết tâm lý đang nồng nàn ao ước, đương thèm lạt khao khát, đương tiềm tàng mà đem ra cám dỗ. Hại thay! Yếu ớt đức tin, ngày nay Bần đạo ăn năn quá lẽ, 15 năm đã đặng thấy gì?

    Cả toàn thiên hạ nói rằng: Nòi giống VN không có Đạo. Lạ lùng thay! chúng ta tự hỏi có thật vậy chăng? Thật quả có chớ, có nhiều Đạo quá mà thành ra không Đạo, mượn Đạo, xin Đạo của thiên hạ mà thôi....

    Thành thử VN có nhiều Đạo quá nên thành không Đạo.

    Ngày Chí Tôn tình cờ đến, vì ham thi văn nên ban sơ DTC đến dụ bằng thi văn tuyệt bút làm cho mê mẩn tinh thần. Hại thay! Nếu chẳng phải là nhà thi sĩ, ắt chưa bị bắt một cách dễ dàng như thế. Vì ham văn chương thi phú nên Ngài ráng dạy. Chí Tôn đến ban đầu làm bạn thân, rồi dạy đạo, kế bảo Vọng Thiên cầu Đạo, rồi Ngài dạy lập Đạo.

    Khi ấy, Bần đạo chưa tín ngưỡng, bởi lẽ nòi giống nước Nam còn tín ngưỡng tạp nhạp lắm, không chưn đứng, không căn bản, nói rõ là không tín ngưỡng gì hết. Bần đạo mới trả lời với Đức Chí Tôn, ngày nay Bần đạo nghĩ lại rất sợ sệt. Nếu không phải gặp Đấng Đại Từ Bi thì tội tình biết chừng nào mà kể.

    "Thưa Thầy, Thầy biểu con làm Lão Tử hay Jésus, con làm cũng không đặng; Thích Ca, con làm cũng không đặng, con chỉ làm đặng Phạm Công Tắc thôi. Con lại nghĩ con bất tài vô đạo đức nầy quyết theo Thầy không bỏ, nhưng tưởng cũng chẳng ích chi cho Thầy."

    Đấng ấy trả lời: - Tắc, thảng Thầy lấy tánh đức Phạm Công Tắc mà lập giáo, con mới nghĩ sao?

    Bần đạo liền trả lời: - Nếu đặng vậy....

    Ngài liền nói: - Thầy đến lập cho nước Việt Nam nầy một nền Quốc Đạo.

    Nghe xong, Bần đạo từ đấy hình như phiêu phiêu lên giữa không trung, mơ màng như giấc mộng. Được nghe nói cái điều mà mình thèm ước nên Bần đạo không từ chối đặng.

    Ôi! Quốc Đạo là thế nào? Quốc là nước, vậy nòi giống tín ngưỡng lập Quốc Đạo, Bần đạo theo tới cùng coi lập nó ra thế nào, hình tướng nào cho biết. Vì đó mà lần mò theo đuổi đến ngày nay, thấy hiện hữu cái hình trạng là Đạo Cao Đài, rồi lại đoán xét coi nó biến hình Quốc Đạo Việt Nam ra sao?

    Ngài cho một bài thi, dám chắc không ai thấu đáo nổi, người coi cái gốc thì không thấy ngọn, người coi cái ngọn thì không thấy gốc, tứ văn thiệt thà hay ho cho tới các đảng phái quốc sự ngày nay cũng lợi dụng.

    Từ đây nòi giống chẳng chia ba.

    Tức nhiên không chia 3 Đạo, chớ không phải chia 3 Kỳ à!

    Thầy hiệp các con lại một nhà.

    Thầy nắm chủ quyền hiệp Tam giáo, nếu nói riêng nòi giống hiệp Nam, Trung, Bắc thì vô vị lắm.

    Nam, Bắc cùng rồi ra ngoại quốc.

    Tức nhiên nền chơn giáo Quốc Đạo không phải của ta thôi, mà lại của toàn nhơn loại, là truyền giáo Nam Bắc thành tướng rồi ra ngoại quốc, tức là tôn giáo toàn cầu vậy.

    Chủ quyền chơn đạo một mình Ta.

    Tam giáo, Ngài vi chủ năm châu tín ngưỡng lại qui nhứt mà thôi. Nắm cả tín ngưỡng của loài người, chính Đức Chí Tôn là Chúa tể CKTG, làm chúa nền Chánh giáo tại nước Nam, vi chủ tinh thần loài người, tức đủ quyền năng lập Quốc Đạo.

    Ngài đến đem đại nghiệp cho quốc dân nầy, hình thể lựa chọn ai? Chọn Tạo đoan vạn vật tức là Phật Mẫu. Tinh thần của Đức Chí Tôn, hình thể của Đức Phật Mẫu; trí não của Cha, hình hài của Mẹ. Cả thảy đều thấy, hễ vô Đại điện Đại Từ Phụ, nào chức nầy chức kia, mão cao áo rộng; còn vô Điện Thờ Phật Mẫu thì trắng hết, không ai hơn ai cả.

    Nếu hiểu biết thấy bí pháp của Chí Tôn cao kỳ quá lẽ.

    Chí Tôn nói rằng: Quốc Đạo nầy, Ngài qui tụ tinh thần đạo đức trí thức toàn nhơn loại cho đặc biệt, có cao có thấp, có hàng ngũ có phẩm giá; còn về phần xác thịt của loài người, mạng sống trước mặt Ngài không ai hơn ai, cả thảy sống đồng sống, chết đồng chết, đặng đem Quốc Đạo làm môi giới cả đại đồng đặng tạo tương lai loài người cho có địa vị oai quyền cao thượng.

    Nếu hiểu đặng thì Thánh thể cũng vậy, Hội Thánh chư Chức sắc Thiên phong nam nữ hay toàn thể tín đồ cũng vậy, lãnh Thiên mạng đảm nhiệm trách vụ thiêng liêng Chí Tôn phú thác lập giáo, tức nhiên phải có phẩm giá, trật tự đẳng cấp. Nếu hiểu thêm ý của Ngài, khi cổi áo nầy ra khỏi đại điện rồi hết thảy đồng là anh em, không ai hơn ai, không ai thua ai, không khinh không trọng, đầy đủ tình yêu ái trong lòng Mẹ đem ra mà thôi. Nam nữ cũng thế. Ngày giờ nào nhơn loại cả thế gian ở mặt địa cầu nầy hiểu được lý lẽ chí hướng cao thượng ấy là ngày Đạo Cao Đài sẽ ra thiệt tướng."

    Nước VN trong buổi Hạ nguơn, được hồng ân của Đức Chí Tôn ban cho một nền Quốc Đạo Cao Đài. Người VN không nên ích kỷ, bo bo giữ lấy mối Đạo cao thượng của mình, mà phải truyền bá rộng rãi ra khắp năm châu bốn biển để toàn cả nhơn loại đều được hưởng ân điển của Đấng Chí Tôn, Đại Từ Phụ của toàn nhơn loại, làm cho nền Quốc Đạo VN trở thành nền Đại Đạo của toàn nhơn loại.

    "Lo lường thấu đáo đạo huyền vi,

    Ngàn tuổi chưa ai dám sánh bì.

    Một nước nhỏ nhen trong vạn quốc,

    Ngày sau làm chủ mới là kỳ!"

    (Đức Chí Tôn)

    Nhờ nền Quốc Đạo Cao Đài mà dân tộc VN sẽ làm chủ tinh thần của nhơn loại.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

    TÐ ÐPHP: Thuyết Ðạo của Ðức Phạm Hộ Pháp.

    DTC: Diêu Trì Cung.

    CKTG: Càn Khôn Thế giới.

     

  • Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách

    國家興亡,匹夫有責

    Quốc: Nước, quốc gia. Gia: nhà. Hưng vong: hưng thịnh hay suy vong. Thất phu: một người đàn ông thường. Hữu: có. Trách: trách nhiệm.

    Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, nghĩa là: nước nhà lúc hưng thịnh hay lúc suy vong, một người dân thường cũng phải có trách nhiệm lo lắng.

     

  • Quốc hồn

    國魂

    A: The national spirit.

    P: L'esprit national.

    Quốc: Nước, quốc gia. Hồn: linh hồn, tinh thần.

    Quốc hồn là hồn nước, ý nói cái tinh thần đặc biệt của một dân tộc, được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, khiến dân tộc ấy có những đặc điểm khác với dân tộc khác.

    KTKVTH: Trụ tâm nâng đỡ quốc hồn.

    KTKVTH: Kinh Tụng Khi Vua Thăng Hà.

     

  • Quốc mạch

    國脈

    A: The economical life of a country.

    P: La vie économique d'un pays.

    Quốc: Nước, quốc gia. Mạch: ống dẫn máu để đem dưỡng khí nuôi sống các tế bào trong cơ thể.

    Quốc mạch là mạch sống của một nước, tức là những sinh hoạt của tất cả ngành nghề trong nước làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người dân được đầy đủ và tốt đẹp.

    NG: Thọ quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung.

    NG: Nho Giáo, Kinh Nho Giáo.

     

  • Quốc sĩ

    國士

    A: Eminent scholar of a country.

    P: Lettré éminent d' un pays.

    Quốc: Nước, quốc gia. Sĩ: người trí thức.

    1. Quốc sĩ là người trí thức tài giỏi danh tiếng trong nước.

    2. Trong Đạo Cao Đài, Quốc Sĩ là một phẩm Chức sắc trong Ban Thế Đạo, đứng trên phẩm Hiền Tài, nhưng dưới Đại Phu và Phu Tử. (Xem: Ban Thế Đạo, vần B)

    Phẩm Quốc Sĩ được cầu phong vào phẩm Giáo Sư CTĐ.

    CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

     

  • Quốc sự

    國事

    A: The state affairs.

    P: Affaires de l'état.

    Quốc: Nước, quốc gia. Sự: việc.

    Quốc sự là việc nước, tức là việc chánh trị trong nước.

    Làm quốc sự là làm chánh trị, tức là tham gia các hoạt động cách mạng lật đổ nhà cầm quyền Pháp đang đô hộ VN, với ý muốn lập chủ quyền độc lập cho dân tộc VN.

    TNHT: Trung, mặc kệ nó, chúng nghi các con lo quốc sự.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quốc thể

    國體

    Quốc: Nước, quốc gia. Thể: thể diện (danh dự), thể chế (chế độ).

    1. Quốc thể là thể diện, là cái danh dự của một nước.

    2. Quốc thể là thể chế, là chế độ cai trị của một nước, như thể chế dân chủ, quân chủ,....

    TNHT: Mở đường quốc thể, định phong vân.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quốc túy

    國粹

    A: Characteristic of a country.

    P: Le caractéristique d' un pays.

    Quốc: Nước, quốc gia. Túy: tinh túy, thuần nhất không tạp nhạp.

    Quốc túy là cái tinh hoa đặc sắc về vật chất hay tinh thần của một nước.

    Td: Quốc túy của nước Nhựt là cái tinh thần võ sĩ đạo.

    Quốc túy của nước VN có thể kể ra hai thứ tượng trưng: về tinh thần là sự thờ phụng tổ tiên, về vật chất là bánh chưng bánh dầy.

    TNHT: Ấy là kế bảo tồn quốc túy, lại là phương thoát tục.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quốc tự

    國字

    A: The national character.

    P: Le caractère national.

    Quốc: Nước, quốc gia. Tự: chữ viết.

    Quốc tự là chữ viết của một nước, ở đây ý nói chữ viết của dân tộc VN.

    Quốc tự của người VN được Đức Chí Tôn dùng làm chánh tự để mở đạo và truyền đạo ra khắp thế giới.

     

  • QUY

     (Xem: Qui)

     

  • QUỶ

     (Xem: Quỉ)

     

  • Quyên sinh

    捐生

    A: To suicide oneself.

    P: Se suicider.

    Quyên: liều bỏ. Sinh: sống, mạng sống.

    Quyên sinh là liều bỏ mạng sống, tức là tự tử.

     

  • Quyên trợ

    捐助

    A: To subscribe money.

    P: Souscrire de l'argent.

    Quyên: cổ động mọi người bỏ tiền ra để dùng vào việc nghĩa việc thiện. Trợ: giúp đỡ.

    Quyên trợ là đi quyên tiền để giúp đỡ người hoạn nạn.

     

  • QUYỀN

    QUYỀN: 權 - quyền hành, - quyền biến, - tạm làm, - sung vào chức vụ mà chưa chánh vị.

     

  • Quyền biến

    權變

    A: To be adaptable to circumstances.

    P: S' adapter aux circonstances.

    Quyền: thay đổi cách làm việc khi gặp hoàn cảnh khó khăn khác hơn lúc bình thường. Biến: thay đổi.

    Quyền biến là thay đổi cách thức làm việc cho kịp thời để đối phó với sự biến chuyển mau lẹ của tình thế.

    TNHT:

    Quyền biến dầu dùng khi buổi ngặt,

    Dằn lòng nhớ tránh kế mưu gian.

    Quyền bất thất kinh: Quyền biến để làm việc cho kết quả nhưng không bỏ mất đạo thường. (Thất là mất. Kinh là đạo thường, đạo lý thường phải theo).

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung

    權敎宗黎文忠

    A: Interim Pope Lê Văn Trung.

    P: Pape intérimaire. . .

    Quyền: sung vào chức vụ mà chưa được chánh vị.

    Quyền Giáo Tông là cầm quyền Giáo Tông hữu hình, mà không nắm quyền Giáo Tông vô hình.

    Ngày 3-10-Canh Ngọ (dl 22-11-1930), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ hiệp với Đức Phạm Hộ Pháp ra Đạo Nghị Định thứ hai, ban quyền Giáo Tông hữu hình tại thế cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, còn quyền Giáo Tông thiêng liêng vẫn do Đức Lý nắm giữ. Kể từ ngày đó, Hội Thánh gọi Ngài là Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.

    Như vậy, chúng ta thấy trong Đạo Cao Đài, quyền hành của Đức Giáo Tông và Đức Hộ Pháp có hai phần: phần hữu hình và phần vô hình.

    Đức Lý Giáo Tông nhường phân nửa quyền hành Giáo Tông cho Ngài Lê Văn Trung điều khiển phần hữu hình, còn quyền hành Giáo Tông thiêng liêng vẫn do Đức Lý nắm giữ.

    Khi Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung qui Thiên, Đức Lý đem nửa quyền hành Giáo Tông hữu hình ấy giao cho Đức Hộ Pháp, nên Đức Phạm Hộ Pháp lúc đó: Chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài: Hiệp Thiên và Cửu Trùng.

    Ngài Lê Văn Trung là một trong 12 môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn, đã có đại công khai mở, xây dựng và truyền bá Đạo Cao Đài.

    Khi còn ở ngoài đời, Ngài là một nhân vật chánh trị nổi tiếng binh vực quyền lợi của dân chúng, làm đến chức Nghị Viên Hội Đồng Thượng Nghị Viện Đông Dương.

    Ngày 11-3-Bính Dần (dl 22-4-1926), Đức Chí Tôn phong Ngài Lê Văn Trung vào phẩm Đầu Sư phái Thượng, Thánh danh là Thượng Trung Nhựt.

    Ngày 3-10-Canh Ngọ (dl 22-11-1930), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ra Đạo Nghị Định thứ 2, ban quyền Giáo Tông hữu hình tại thế cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, còn quyền Giáo Tông vô vi vẫn do Đức Lý nắm giữ.

    Để ghi nhớ công nghiệp lớn lao của Ngài, ngôi trường Trung Học do Hội Thánh lập ra ở gần Cửa số 7 ngoại ô được đặt tên là Trường Trung Học Lê Văn Trung; và con đường cặp hông Giáo Tông Đường trong Nội Ô Tòa Thánh được Hội Thánh đặt tên là đường Thượng Trung Nhựt.

    Sau đây là phần Tiểu Sử chi tiết:

    Ngài Lê Văn Trung sanh năm Bính Tý (1876) tại làng Phước Lâm tổng Phước Điền Trung (Chợ Lớn).

    Thuở Ngài được 3 tuổi thì thân phụ là ông Lê Văn Thanh (1845-1878) đau bịnh từ trần, thân mẫu là bà Văn Thị Xuân (1849- 1912) lúc đó mới 30 tuổi, cư tang thờ chồng, thủ phận ở vậy nuôi con cho đến ngày khôn lớn.

    Ngài Lê Văn Trung lớn lên có hình dáng đẹp đẽ, cân đối, tánh tình hòa nhã nhưng rất cương quyết, phụng sự mẫu thân rất có hiếu, cư xử tốt đẹp với bà con anh em, và Ngài rất ái mộ Nho học.

    Ngài thi vào học tại trường Lycée Chasseloup Laubat SàiGòn, và tốt nghiệp trường nầy vào năm 1894, lúc đó Ngài được 19 tuổi. (Tuổi tây là 18 tuổi).

    Cũng trong năm nầy, ngày 14-7-1894, Ngài Lê Văn Trung được thâu nhận vào làm Thơ Ký tại Dinh Thống Đốc Nam Kỳ. Ngài làm việc Thơ Ký cho đến năm 1906, tổng cộng được 12 năm. Sau đó, Ngài xin thôi việc và được chấp thuận ngày 6-3-1906.

    Ngài Lê Văn Trung ra ứng cử và được dân chúng bầu vào Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ (Conseil Colonial de Cochinchine), đại diện cho các tỉnh: Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Gò Công, Tây Ninh, được liên tiếp 2 khóa, tổng cộng 8 năm. (Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ có 10 Hội Viên người Pháp và 6 Hội Viên người Việt. Hội Viên người Việt do đại diện các Hương chức Nam Kỳ bầu lên).

    Lúc làm Hội Viên Hội Đồng Quản Hạt, mỗi khi nhóm họp nơi Soái Phủ Nam Kỳ, Ngài Lê Văn Trung thẳng thắng bàn cãi những sự ích nước lợi dân. Ngài rất lưu tâm đến việc mở mang các trường dạy học và công việc thương mãi. Trong những sự bàn cãi, đôi khi làm trái ý quan trên, nhưng Ngài vẫn cam tâm vì nhiệm vụ đại biểu của dân, chẳng đoái đến phận mình bị trù dập. Cho nên, xa gần, quan dân đều ngợi khen Ngài là người khẳng khái cương trực.

    Điển hình là vụ Lục Hạng điền, Chánh phủ Pháp phân 6 hạng ruộng để đánh thuế. Ông Outrey, quyền Thống Đốc Nam Kỳ dự thảo luật thuế về Lục Hạng điền, trình ra cho Hội Đồng Quản Hạt thừa nhận để đem ra áp dụng thi hành.

    Ngài Lê Văn Trung cùng với ông Diệp Văn Cương, Hội Đồng Quản Hạt Bến Tre đứng ra làm đầu 6 vị Hội Đồng Quản Hạt người Việt, đồng phản kháng dự thảo luật nói trên, nhưng khi biểu quyết, số thăm của Hội Đồng người Việt chỉ có 6, còn của người Pháp thì 10, nên bị thua thăm, và như thế thì dự luật được thông qua với đa số 10/6.

    Dù thua thăm, nhưng 6 ông cương quyết chống lại luật thuế Lục Hạng điền, nên tất cả 6 ông đều gởi đơn từ chức để phản đối. Dưới thời Pháp thuộc mà 6 ông làm được một việc như thế phải kể là một hành động táo bạo và rất can đảm.

    Từ chức xong, 6 ông đều ứng cử trở lại, và 5 ông được tái đắc cử, chỉ có ông Hội Đồng Hoài là bị thất cử, do ông Bùi Quang Chiêu theo phe ông Outrey phá.

    Nhờ vụ Lục Hạng điền mà tiếng tăm và uy tín của Ngài Lê Văn Trung lên rất cao, khiến cho người Pháp rất chú ý Ngài, chẳng dám xem thường.

    Năm 1911, Ngài Lê Văn Trung đề xuất một việc làm rất mới mẻ tại Sài Gòn, nơi đang chịu sự thống trị nặng nề của Pháp, là việc xây dựng một Nữ Học Đường để giáo dục con gái, thực hiện Nam Nữ bình quyền.

    Chánh phủ Pháp ngoài mặt không dám phản đối, nhưng không ủng hộ việc mở mang dân trí nầy. Ngài Lê Văn Trung đi vận động với bà Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, và một số trí thức ủng hộ, quyên góp tiền bạc, xây dựng được một ngôi trường Nữ đầu tiên tại Sài Gòn, gọi là Collège des Jeunes filles, về sau đặt tên là Trường Nữ Trung Học Gia Long. Hiện nay, trường nầy vẫn còn tấm bia kỷ niệm ghi tên hai vị sáng lập là bà Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương và Hội Đồng Quản Hạt Lê Văn Trung.

    Ngày 18-5-1912, Ngài Lê Văn Trung được Chánh phủ Pháp thưởng cho Bắc Đẩu Bội Tinh Đệ Ngũ Đẳng (Chevalier de la Légion d'Honneur).

    Mấy năm đó, Ngài có mở cửa hàng Hạnh Hoa Thôn, giúp đỡ người VN bổn xứ có nề nếp hưởng nhờ bề thạnh lợi, sanh ý ngày càng phấn tấn, dần dần nên cuộc đại thương, không nhượng ngoại quốc.

    Ngày 10-12-1914, Ngài Lê Văn Trung được Pháp cử lên làm Nghị viên Hội Đồng Soái Phủ Đông Dương (Conseil du Gouvernement de l'Indochine), thường gọi là Hội Đồng Thượng Nghị Viện Đông Dương.

    Nhà cầm quyền Pháp mở hội Thượng Nghị Viện tại Bắc Kỳ, Ngài đi với Nguyên Soái Gourbeil ra bàn việc nước. Quan Thống Soái Bắc Kỳ, Trung Kỳ, với quan Đại Thần An Nam là ông Hoàng Cao Khải, ông Trương Như Cường, đều ngợi khen Ngài là người có khoa ngôn ngữ và rất lễ nghĩa.

    Em của Ngài Lê Văn Trung là Lê Văn Diêu, thuở trước làm Giáo Thọ chữ Pháp, sau được ban chức Huyện Hàm, tánh tình hiếu thuận, nối đường hướng của Ngài, mà gầy dựng được cuộc buôn bán phát đạt.

    Chánh thất phu nhân của Ngài Lê Văn Trung là bà Đãi thị Huệ, cũng người tỉnh Chợ Lớn, hiền đức, trọng nghĩa, siêng năng buôn bán, lại khéo bề nội trợ tề gia, giúp thêm tiếng tốt cho Ngài. (Sau nầy, bà Đãi Thị Huệ nhập môn vào Đạo Cao Đài, được Đức Chí Tôn phong chức Nữ Giáo Sư, thánh danh Hương Huệ, trong kỳ Phong Thánh Nữ phái kỳ I ngày 14-1-Đinh Mão, dl 15-2-1927, tại Chùa Gò Kén Tây Ninh).

    THI RẰNG:

    Ra tài Quản Hạt bấy thu chầy,

    Quan chuộng dân yêu hội hiệp vầy.

    Lòng dạ thẳng ngay, gương vặc vặc,

    Tiếng tăm khen ngợi, tiết hây hây.

    Thương trường mở cuộc buồm xuôi gió,

    Thượng Viện gặp thời chí lướt mây.

    Nhờ đức thung huyên vun quén sẵn,

    Lộc Trời ơn nước, phước gồm may.

    (Viết theo tài liệu trong quyển Điếu Cổ Hạ Kim Thi Tập của ông Nguyễn Liên Phong soạn, Sài Gòn, năm 1915)

    Kể từ năm 1920 trở đi, công việc kinh doanh của Ngài Trung gặp khó khăn, đến cuối năm 1924 thì bế tắc, hoàn toàn bị lỗ lã. Ngài đau buồn, sanh ra hút thuốc phiện và sau đó, thị lực của đôi mắt yếu đi rất nhiều, chỉ thấy mọi vật lờ mờ.

    Người bà con với Ngài là ông Hội Đồng Nguyễn Hữu Đắc, tu theo Minh Lý, thường vào hầu đàn Chợ Gạo. Nguyên mấy tháng trước đây, tại nhà ông Nguyễn Bá Vạn ở ngã ba Bà Kế thuộc Chợ Gạo, Chợ Lớn, nay là Bến Phú Lâm, Quận 6 Chợ Lớn, có lập một đàn thỉnh Tiên rất linh hiển, thường cho thuốc trị bịnh rất hay. Ông Đắc hướng dẫn ông Trung đến hầu đàn nầy. Tại đây, Đức Lý Thái Bạch giáng khuyên Ngài Lê Văn Trung nên tỉnh giấc mộng trần mà lo việc tu hành. Ngài Lê Văn Trung tỉnh ngộ, bắt đầu ăn chay, bỏ hút thuốc phiện, và lần lần đôi mắt của Ngài hết lòa, sáng trở lại.

    Sau khi đàn Chợ Gạo độ được Ngài Lê Văn Trung rồi thì chư Tiên dạy bế đàn, làm cho nhiều người hầu đàn ngạc nhiên, không rõ cớ chi.

    Theo tài liệu của Ban Đạo Sử:

    - Ngày 23-11-Ất Sửu (dl 7-1-1926), Đức Cao Đài Thượng Đế dạy quí ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đem Đại Ngọc cơ đến nhà ông Lê Văn Trung ở Chợ Lớn cho Đức Chí Tôn dạy việc. Quí ông ngần ngại nhưng không dám cải lịnh. Khi đến nhà ông Trung, quí ông trình bày tự sự. Ông Trung vui vẻ chấp thuận và cùng nhau thiết lập đàn cơ. Trong lúc chuẩn bị cầu cơ, nhiều phép lạ hiện ra. Trong đàn cơ nầy, Đức Thượng Đế dạy ông Trung phải hiệp với hai ông Cư và Tắc lo việc mở Đạo.

    Đức Chí Tôn Thượng Đế dạy:

    "Trung! Nhứt tâm nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng của con mà suy lấy.

    Một Trời một Đất một nhà riêng,

    Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.

    Cầm mối Thiên thơ lo cứu chúng,

    Đạo người vẹn vẻ mới thành Tiên."

    Từ đây, ông Trung được Đức Chí Tôn thâu làm môn đệ. Ông vâng Thánh ý, thu xếp việc nhà, một dạ xả thân hành đạo.

    - Ngày 27-11-Ất Sửu (dl 11-1-1926), ông Lê Văn Trung đến viếng xã giao ba ông: Cư, Tắc, Sang. Bốn ông hiệp lại cầu cơ. Đức Chí Tôn giáng dạy ông Trung nhiều việc.

    - Ngày 14-12-Ất Sửu (dl 27-1-1926), quí ông bạch hỏi Đức Thượng Đế về cách thờ phượng. Đức Thượng Đế dạy các ông đến gặp ông Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu để xem cách thức, vì ông Chiêu đã được Đức Thượng Đế dạy đạo từ lâu, và bảo xem ông Chiêu là Anh Cả.

    - Ngày 15-12-Ất Sửu (dl 28-1-1926), cuộc họp mặt và dự tiệc do ông Lê Văn Trung tổ chức gồm 12 vị môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn và 14 vị khác đã có hầu đàn cơ nhiều lần nhưng chưa được chính thức thâu nhận làm môn đệ.

    - Ngày 17-12-Ất Sửu (dl 30-1-1926), ông Lê Văn Trung thượng tượng thờ Thầy trọng thể hơn các vị khác. Đức Thượng Đế giáng cơ dạy và chỉ cách đặt vị trí thờ Đức Quan Thánh, Đức Quan Âm Bồ Tát và Đức Lý Thái Bạch.

    - Đêm 12-3-Bính Dần (dl 23-4-1926), Đức Chí Tôn sắp đặt cuộc Thiên phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, ân phong cho Ngài là Thượng Đầu Sư, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, cùng một lượt với Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.

    - Ngày 23-8-Bính Dần (dl 29-9-1926), Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, vâng theo Thánh ý của Đức Chí Tôn, hiệp cùng chư Chức sắc Thiên phong và chư Đạo hữu, tổng cộng 247 người, họp tại nhà ông Nguyễn Văn Tường ở đường Galiéni, nay là đường Trần Hưng Đạo, quận 1 Sài Gòn, để thảo ra TỜ KHAI ĐẠO, gởi lên Chánh phủ Pháp. Tờ Khai Đạo nầy được dâng lên Đức Chí Tôn xem xét trước.

    - Ngày 1-9-Bính Dần (dl 7-10-1926), Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt đích thân đem Tờ Khai Đạo đến gởi cho quan Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol, được ông vui vẻ tiếp nhận.

    - Ngày 15-10-Bính Dần (dl 19-11-1926), ngày rằm Hạ nguơn năm Bính Dần, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt hiệp cùng Đức Hộ Pháp và chư Chức sắc Đại Thiên phong, vâng lịnh Đức Chí Tôn mượn chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén Tây Ninh làm Thánh Thất tạm để tổ chức Đại lễ Khai Đạo Cao Đài, có đủ các quan chức các cấp của Chánh quyền Pháp thời đó và đại diện các tôn giáo khác đến dự.

    - Ngày 3-10-Canh Ngọ (dl 22-11-1930), Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt được Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho quyền Giáo Tông hữu hình, theo Đạo Nghị Định thứ nhì.

    Xin chép ra sau đây nguyên văn Đạo Nghị Định nầy:

     

    Đạo Nghị Định thứ 2

    ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

    (Đệ ngũ niên)

    Chiếu theo Pháp Chánh Truyền ban quyền hành cho Giáo Tông và Hộ Pháp,

    Nghĩ vì chư Chức sắc Thiên phong có quyền đặc biệt ngoài luật đã định, còn quyền hành Hội Thánh nữa,

    Nghĩ vì thiếu luật Hội Thánh nên quyền hành chánh chẳng đặng vẹn toàn,

    NGHỊ ĐỊNH

    Điều thứ nhứt: Ban quyền hành cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo Tông về phần xác, còn phần thiêng liêng có Lão.

    Điều thứ nhì: Chức sắc CTĐ, duy bậc Chánh Phối Sư phải tùng quyền mà hành chánh về phần Chánh trị của Đạo, song đặng thế mặt cho Đầu Sư, đương buổi người cầm quyền Giáo Tông của Lão.

    Điều thứ ba: Mọi việc chi thuộc về quyền Chánh trị đều giao cho Chánh Phối Sư.

    Điều thứ tư: Chánh Phối Sư đặng trọn quyền thông công cùng Chánh phủ và nhơn sanh, nhưng buộc phải có Hội viên Nhơn sanh và Hội Thánh chăm nom cơ hành động.

    Điều thứ năm: Nghị Định nầy sẽ ban hành vào ngày 15-10-Canh Ngọ.

    Làm tại TTTN ngày mùng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ.
    GIÁO TÔNG

    Phạm công Tắc

    HỘ PHÁP

    Phạm công Tắc

    Một số ít Chức sắc Thiên phong sanh lòng đố kỵ Đức Quyền Giáo Tông, nên họ tìm đủ cách để công kích và buộc tội Ngài. Họ thiết lập Hội Vạn Linh để buộc tội Ngài, và viết Tờ Châu Tri để mạ lỵ, xúi giục tín đồ đem nhiều việc phi lý kiện Ngài nơi Tòa Án tỉnh Tây Ninh, đồng thời vu cáo Ngài làm cách mạng chống Chánh quyền Pháp.

    Không ngày nào mà Đức Quyền Giáo Tông không bị các viên Thẩm phán Tòa Án đòi ra hỏi cung.

    Đang lúc bị khủng bố nguy nan như thế, Đức Ngài vẫn điềm tỉnh đối phó, một mặt hiệp với bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh sắp đặt Nữ phái trong Đạo.

    Đức Ngài nói: "Lúc trước tôi đã giúp bà Cụ Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương lập trường Nữ học, bây giờ tôi hiệp với bà Nữ Chánh Phối Sư tổ chức các Nữ Viện, cũng đồng một nghĩa. Tôi chỉ ao ước cho Nam Nữ bất bình đẳng ở ngoài Đời chẳng còn trong Đạo nữa."

    Kết cuộc các vụ thưa kiện Đức Ngài ở Tòa Án tỉnh Tây Ninh, họ kết tội Ngài: Đã cho công quả đánh xe bò ban đêm không thắp đèn hiệu, bò thiếu dây buộc ách, 34 người Đạo công quả thiếu thuế, và họ phạt Ngài 2 ngày tù.

    Thật là khôi hài đối với một vị Cựu Thượng Nghị viên thưởng thọ Bắc Đẩu Bội Tinh của Chánh phủ Pháp. Họ biết Ngài vô tội, nhưng cũng cố buộc tội để làm nhục Ngài.

    Bọn lính sen đầm đem hai án tòa vào Giáo Tông Đường đặng bắt Ngài ra ngồi tù ở khám đường Tây Ninh. Ngài chậm rãi khăn áo chỉnh tề, mang Bắc Đẩu Bội Tinh vào, rồi đi theo sai nha. Đó là buổi sáng ngày mùng 7-Giêng-Giáp Tuất (dl 20-2-1934), trước lễ Vía Đức Chí Tôn hai ngày. Đức Ngài ngồi tù tại khám đường Tây Ninh 2 ngày rưỡi mới được thả về.

    Sau khi cúng vía Đức Chí Tôn và lễ rằm Thượng nguơn xong, Đức Ngài liền viết một văn thư đề ngày 4-3-1934 (âl 19-1-Giáp Tuất), gởi cho Chánh phủ Pháp giao trả Bắc Đẩu Bội Tinh, vì nó không còn ý nghĩa gì nữa.

    Bức văn thư nầy viết bằng Pháp ngữ, trong đó có nhiều chi tiết lịch sử quan trọng, xin chép nguyên văn ra đây và có bài dịch ra Việt băn.

    Tây Ninh, le 4 Mars 1934.

    A Monsieur le Président de la République Française.

    P A R I S.

    Monsieur le Président de la République,

    J'ai l'honneur de venir très respectueusement remettre entre vos mains la Décoration de Chevalier de l'ordre national de la Légion d'Honneur que ma conférée la République Francaise par Décret du 18 Mai 1912.

    Fonctionnaire apprécié et estimé pendant douze ans, Conseiller Colonial ensuite pendant huit ans, enfin Membre du Conseil du Gouvernement de l'Indochine pendant douze ans, telles sont les trente-deux années de vie mises loyalement au service de la France, qui m'ont valu cette haute récompense de la République.

    Après ma vie publique, je m'apprêtais à finir mes vieux jours dans un coin oublié de terre en Cochinchine, quand soudain (1926) je fus appelé par L'Invisible à reprendre ma tâche pour l'unification de toutes les religions existantes, pour semer parmi les peuples l'Amour du Bien et des créatures de Dieu, la pratique de la Vertu, apprendre à aimer la Justice et la résignation: Relever aux humains les conséquences posthumes de leurs actes, tout en assainissant leur âme.

    Depuis huit ans, je me consacre entièrement à cette oeuvre de fraternisation des races, convaincu que la Nouvelle Religion constitue un des puissants facteurs indispensables à la réalisation d'un collaboration loyale et sincère de tous les peuples, d'une paix mondiale durable.

    Le Caodaïsme comprend aujourd'hui plus d'un million de fidèles composé d'Annamites en très grande partie, et de Français, Cambodgiens, Laotiens, Moïs et Chinois.

    Nous ne sommes pas compris peut-être par le Gouvernement colonial?

    Toujours est-il que le Caodaïsme est sans cesse injuste -ment frappé?

    À nos doléances et à nos réclamations, on répond par des actes arbitraires et des persécutions religieuses.

    À l'heure qu'il est en fait tout pour atteindre le promoteur de cette nouvelle église dans son honneur.

    Dans de nombreux documents, je me permets d'extraire les passages édifiants ci-après d'une lettre que j'ai écrite récemment à Monsieur l'Administrateur Vilmomt, Chef de la province de TâyNinh, Cochinchine.

    En ce qui concerne vos récentes instructions, je vous serais très oublié de bien vouloir me faire connaiâtre jusqu'à quand est applicable cette nouvelle règlementation des cultes.

    Quant aux évènements dont vous avez fait allusion dans votre lettre, je me permets de vous faire remarquer que si vous

    aviez bien voulu tenir compte de mes requêtes et de mes droits, sinon de Chef du Sacerdoce Caodạsme, du moins de Chef du Temple de LongThành (TâyNinh) ces désordres n'auraient jamais au lieu. Mieux que tout autre vous saviez que les désordres que vous signalez aujourd'hui ne venaient pas de nous.

    La réunion du 24 Novembre dernier, autorisée par vous à se tenir dans mon Temple, à des personnes tout à fait étrangères à la religion et malgré ma lettre No 394 du 22 Novembre 1933, est un véritable défi, sinon une insulte, jeté sans motif à la face qu'un vieux et loyal serviteur de la France doublé d'un décoré de la Légion d'Honneur.

    Il m'est vraiment pénible de constater ces choses à l'heure où tous mes efforts et tout mon dévouement sont mis sincèrement au service de la cause commune des deux peuples. c'est-à-dire à l'entente cordiale et sincère les deux races appelées par la volonté du tout puissant à vivre en communauté de vie et d' intérêts.

    Naturellement ces doléances sont restées sans réponse, par contre les persécutions se sont de plus belle.

    La dernière en date fut mon emprisonnement, le 22 Février dernier, pour dette due au fisc par trente-quatre de mes coreligionnaires, prétexte tout à fait fallacieux.

    Le Chevalier de Légion d'Honneur, à l'aurore de sa soixantième d'année, fut jeté en prison sans qu'aucune formalité prescrite par la loi ne fut observée.

    J'ai séjourné deux jours et demi dans une cellule de la prison de Tây Ninh avec mon ruban arboré et la carte de Chevalier sur moi.

    Ainsi, aux yeux du Gouvernement colonial, la Légion d'Honneur ne signifie rien, l'infâmie peut atteindre.

    Tout le tort revient-il à la République qui ne devait pas conférer cet insigne honneur à un pauvre indigène?

    J'accomplis mon geste avec d'amers regrets, mais je préfère ne plus porter une très haute distinction à laquelle le Gouvernement colonial n'a aucun égard et qui ne peut même plus devenir un éclatant témoignage de mon attachement à la France.

    Cependant, confiant en la justice de cette France douce et généreuse que j'ai toujours aimée, je poursuivrai jusqu'au bout ma tâche sans passion et sans haine, espérant qu'on voudra bien un jour se rendre compte des erreurs commises et rendre justice à une religion qui n'a d'autre prétention que celle d'apporter au monde la paix et la concorde.

    Veuillez agréer, Monsieur le Président de la Républi-que, l'expression de mon plus profond respect.

    LÊ VĂN TRUNG

    Lê Văn Trung, Pape Intérimaire

    du Bouddhisme Renové ou Caodaisme,

    Ancien Conseiller Colonial de Cochinchine,

    Ancien Membre du Conseil du Gouvernement de l'Indochine.

    Long Thành, Tây Ninh, Cochinchine.

    Pièce jointe: Un Certificat de Monsieur le Grand Chancelier de l'ordre national de la Légion d'Honneur.  

    Bài dịch ra Việt văn:

    Tây Ninh, ngày 4 tháng 3 năm 1934.

    Kính gởi Tổng Thống nước Cộng Hòa Pháp,

    Thủ đô Ba-lê.

    Thưa Tổng Thống,

    Tôi hân hạnh hoàn trả vào đôi tay của Ngài với lòng tôn kính, cái huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh mà nước Pháp đã ban cho tôi do Sắc lịnh ngày 18-5-1912.

    Là một công chức được yêu mến và khen ngợi trong 12 năm, tiếp theo là làm Hội viên Hội Đồng Quản Hạt trong 8 năm, cuối cùng làm Nghị viên Hội Đồng Soái Phủ Đông Dương trong 12 năm, cả thảy là 32 năm làm việc trung thành với nước Pháp, nên nước Pháp mới ban cho tôi phần thưởng cao quí như thế.

    Sau đời sống công chức của tôi, tôi chuẩn bị sống hết tuổi già trong một nơi vắng vẻ nào đó của đất Nam Kỳ. Khi bỗng năm 1926, tôi được Đấng Vô hình gọi đến giao cho phận sự qui nhứt tất cả các nền tôn giáo hiện hữu, để gieo rắc giữa các dân tộc, lòng thương yêu điều thiện và thương yêu chúng sanh, sự thực hành đức hạnh, học tập thương yêu công lý và sự an phận: tiết lộ cho nhơn loại biết về Quả báo, tất cả để thanh khiết hóa linh hồn.

    Từ 8 năm nay, tôi hoàn toàn chú tâm vào công cuộc kết tình huynh đệ của các chủng tộc loài người, tin chắc rằng nền Tân Tôn giáo thiết lập được một trong những yếu tố mạnh mẽ và cần thiết để thực hiện một sự hợp tác chân thành của tất cả các dân tộc, của một nền hoà bình thế giới lâu dài.

    Đạo Cao Đài hôm nay có hơn một triệu tín đồ, gồm phần lớn là người Việt Nam, kế đó là người Pháp, người Miên, người thiểu số, và Hoa kiều.

    Có lẽ Chánh quyền thuộc địa không hiểu chúng tôi chăng?

    Phải chăng Đạo Cao Đài luôn luôn bị áp bức bất công?

    Với những kêu ca và thỉnh nguyện của chúng tôi, họ trả lời bằng những hành động chuyên chế và sự ngược đãi tôn giáo.

    Ngay thời buổi nầy, họ đang làm đủ cách để hãm hại người đứng đầu của Tân Giáo hội trong danh vọng của họ.

    Trong nhiều tài liệu, tôi xin trích ra đây những đoạn điển hình trong một cái thơ mà tôi đã viết mới đây gởi cho ông Vilmont, Tỉnh trưởng tỉnh Tây Ninh, Nam Kỳ.

    Thuộc về những chỉ thị mới đây của Ngài, tôi rất muốn biết đến bao giờ các qui tắc mới về sự thờ cúng mới được áp dụng.

    Về phần những sự việc mà Ngài đã ám chỉ trong văn thư của Ngài, tôi mạn phép xin Ngài chú ý rằng, nếu Ngài xét đến những thỉnh nguyện và quyền lợi của tôi, nếu không là Chủ của Hội Thánh Đạo Cao Đài, ít ra cũng là chủ của Thánh Thất Long Thành (Tây Ninh) thì những vụ lộn xộn nầy không bao giờ xảy ra.

    Hơn nữa, Ngài biết rằng những vụ lộn xộn mà Ngài đã báo hiệu, nó không xuất phát từ chúng tôi.

    Cuộc họp ngày 24 tháng11 năm ngoái, được Ngài cho phép, tại Thánh Thất của chúng tôi, với những người xa lạ đối với tôn giáo chúng tôi, và mặc dầu văn thư của tôi số 394 ngày 22-11-1933 là một thách đố thật sự, nếu không, một điều sỉ nhục ném vào một cách vô cớ, mặt của một công bộc già nua và trung thành của nước Pháp đã được đeo huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh.

    Thật là khó khăn mới nhận định được những sự việc lúc đó, mà tất cả những cố gắng và nhiệt tâm của tôi, quả thật đã phụng sự cho lợi ích chung của hai dân tộc, nghĩa là với sự hòa hợp tốt đẹp và thành thật, hai sắc dân được kêu gọi bởi ý chí mạnh mẽ muốn sống trong cộng đồng đời sống và quyền lợi.

    Đương nhiên, những thỉnh nguyện ấy bị xếp lại, không trả lời, trái lại, những sự ngược đãi lại càng thêm nữa.

    Mới đây, ngày 22 tháng 2 vừa qua, bởi 34 người đồng đạo của tôi thiếu thuế nhà nước, mà tôi bị bắt bỏ tù, lý do hoàn toàn giả dối.

    Cái Bắc Đẩu Bội Tinh của tôi, ở vào năm bình minh của tuổi 60, đã bị ném vào tù, tuyệt đối không có một hình thức nào được qui định bởi pháp luật, được tuân thủ.

    Tôi bị giam 2 ngày rưỡi trong một phòng giam nhỏ tại khám đường Tây Ninh với cái huy chương đeo trên mình và cái thẻ Bắc Đẩu Bội Tinh.

    Như thế, dưới con mắt nhà cầm quyền thuộc địa, cái Bắc Đẩu Bội Tinh chẳng có nghĩa lý gì cả, một sự ô nhục có thể đạt tới.

    Tất cả lầm lỗi đó, phải chẳng do nước Pháp không nên trao cái dấu hiệu danh dự ấy cho một người bổn xứ khốn khổ?

    Tôi thực hiện cái cử chỉ ấy với sự luyến tiếc cay đắng, nhưng tôi không thích mang cái huy chương ấy nữa, vì nó bị nhà cầm quyền thuộc địa không một chút tôn trọng, và nó cũng không trở thành một bằng chứng rõ ràng của lòng ái mộ của tôi đối với nước Pháp.

    Tuy nhiên, tin tưởng vào công lý của nước Pháp hiền hòa và độ lượng mà tôi hằng yêu mến, tôi sẽ theo đuổi đến cùng phận sự của tôi, không hờn giận, không hận thù, hy vọng một ngày nào đó, họ sẽ biết rõ những lầm lỗi đã vấp phạm và trả lại công lý cho một tôn giáo mà nó không có ý muốn nào khác hơn là đem lại cho thế giới một nền hòa bình và hòa hợp.

    Kính xin Tổng Thống nhận nơi đây lòng tôn kính sâu xa của tôi.

    LÊ VĂN TRUNG

    Lê Văn Trung, Quyền Giáo Tông,

    của Phật giáo Canh tân, hay Đạo Cao Đài.

    Cựu Nghị viên Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ,

    Cựu Nghị viên Thượng Nghị Viện Đông Dương.

    Long Thành, Tây Ninh, Nam Kỳ.

    Giấy đính kèm: Một Chứng thư của Cục Trưởng Cục Bắc Đẩu Bội Tinh.

     

    Ngày 13-10-Giáp Tuất (dl 19-11-1934), Đức Quyền Giáo Tông (QGT) lâm bịnh và nhẹ nhàng thoát xác qui Thiên tại Giáo Tông Đường, lúc 3 giờ chiều, hưởng thọ 59 tuổi.

    Hội Thánh thông báo cho toàn đạo để tang: Chức sắc CTĐ và HTĐ từ phẩm Giáo Hữu hay tương đương đổ lên, để tang một năm, còn Lễ Sanh và tín đồ thì tùy ý.

    Thi hài của Đức QGT được liệm vào Liên đài, mỗi khi di chuyển thì đặt lên lưng Long mã, gọi là Liên đài kỵ Long mã.

    Tang lễ được cử hành rất long trọng với chương trình:

    Ngày 15-10-Giáp Tuất: Lễ Thành phục.

    Ngày 15 đến 24-10-Giáp Tuất: Liên đài quàn tại Giáo Tông đường.

    Ngày 24-10 Giáp Tuất: Di Liên đài đến Tòa Thánh.

    Ngày 25-10-Giáp Tuất: Di Liên đài ra Cửu Trùng Thiên tại Đại Đồng Xã trước Tòa Thánh.

    Ngày 26-10-Giáp Tuất: Liên đài nhập bửu tháp.

    Bửu tháp của Đức Ngài được xây ngay phía sau BQĐ của Tòa Thánh.

    Mượn lời của ký giả Diệp Văn Kỳ nhận xét về cái chết của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, được đăng lên báo lúc bấy giờ, để làm phần kết:

    "Chúng tôi chỉ biết rằng, từ hôm ông chết đến nay, ở Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh, số người mỗi ngày đến chịu tang, lấy muôn mà kể. Già trẻ, bé lớn, đàn ông đàn bà ở Lục tỉnh, ở Nam Vang, ở Lào, thảy đều thương tiếc khóc than, chẳng khác nào như con mất cha mẹ.

    Nếu có thể lấy những Chuông vải trắng bịt trên đầu để làm thước đặng đo sự nghiệp, công đức của người quá vãng, thì ta có thể nói rằng: sự nghiệp, công đức của Ông Lê Văn Trung là lớn nhất ở Nam Kỳ nầy vậy."

    Nếu kể từ ngày Khai Đạo tại Thánh Thất Từ Lâm Tự Gò Kén 15-10-Bính Dần (dl 19-11-1926) cho đến ngày Đức Quyền Giáo Tông qui Thiên 13-10-Giáp Tuất (dl 19-11-1934) thì đúng 8 năm tròn. Nếu tính từ ngày Đức Chí Tôn thâu nhận Ngài làm môn đệ 23-11-Ất Sửu (dl 7-1-1926), thì Đức Ngài hành đạo được 9 năm.

    Đức Phạm Hộ Pháp lấy bài thi sau đây của Đức Quyền Giáo Tông làm bài thài hiến lễ Đức Ngài:

    Càn khôn quen thú phước Linh Tiêu,

    Thấy khổ trần gian nghịch Thánh điều.

    Mượn xác phàm riêu cây Phất Chủ,

    Nương cơ tạo xủ phướn Tiêu Diêu.

    Bầu linh khổ hải đưa thiêu cạn,

    Gậy sắt nhơn sanh chống dắt dìu.

    Muôn dặm cửa Tiên chờ bước tục,

    Cỡi lau trở gót ruột trăm chiều.

    Nguyên căn của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung:

    Nguyên căn của Đức QGT Lê Văn Trung là Đại Tiên Lý Thiết Quả, tức là Lý Ngưng Dương, đứng đầu Bát Tiên.

    Trong con đường TLHS, Đức Phạm Hộ Pháp có mô tả trận đánh giữa Đức QGT trong pháp thân Lý Thiết Quả với Kim Quang Sứ để mở đường đi từ Ngọc Hư Cung đến CLTG:

    Buổi ấy, Bần đạo đi với cái pháp bửu bằng vân xa, đi ngang qua từ Ngọc Hư Cung đến CLTG. Khi vân xa đi qua đó, bị Kim Quang Sứ đón đường không cho đi. Bần đạo đương bối rối không biết tính làm sao, liền khi ấy ngó thấy Đức Lý Ngưng Dương trong pháp thân của Đức QGT Thượng Trung Nhựt, cầm cây gậy cà thọt nhảy ra chiến đấu với Kim Quang Sứ. Bần đạo ngó thấy cà ạch cà đuội, chơn cụt chơn dài, nhảy cà quơ cà quơ.

    Bần đạo ngồi trên vân xa suy nghĩ, Đức Lý Ngưng Dương có một mình làm sao đánh lại người ta, thấy ban đầu có một mình Đức QGT, bên kia Kim Quang Sứ, hai đàng đánh nhau không phân thắng bại, bửu bối không biết bao nhiêu mà bất phân thắng bại. Hồi lâu ngó thấy Đức Lý Ngưng Dương đập Kim Quang Sứ một gậy, đập văng hào quang ra như lọ nồi, như đập vào bình mực văng túa xua ra vậy. Đập thấy biến ra người thứ nhì nữa. Đàng nầy cả trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn có một vị Chức sắc Thiên phong mà Bần đạo không nói tên ra, cản đánh người thứ nhì đó. Kim Quang Sứ biến ra bao nhiêu thì bên nây cũng hiện ra bấy nhiêu. Một trận đại chiến náo nhiệt. Bần đạo ngồi trên vân xa cũng như người ta ngồi trên máy bay mà khán trận vậy. Dòm riết mỏi mòn buồn ngủ, ngủ đã rồi thức dậy thấy cũng còn đánh, ngồi lâu lắm gục xuống ngủ nữa, làm 3 lần như vậy, tới chừng lần thứ 3 tỉnh lại thấy mặt trận đầy CKVT, lớn quá, bên mình không biết làm thế nào chiến đấu cho lại, không lẽ ngồi trên vân xa nầy hoài, phải có phương pháp gì giúp tay mới đặng....

    Đến chừng bay giữa không trung, thấy minh mông không biết làm sao gom lại được, để vậy khó đánh lắm, ai ngờ Bần đạo cầm cây Kim tiên, định vẽ vòng gom lại, thì chẳng khác nào vãi cái chài vậy. Bần đạo cầm cây Kim tiên định gom lại, vừa gom thì nó thúc nhặt mặt trận ấy lại nhỏ lần lần, thấy đàng ta đã thắng Kim Quang Sứ.

    Bên đạo của ta là Đức Lý Ngưng Dương đã diệt được bên Kim Quang Sứ, tới chừng rốt cuộc chỉ còn Đức Lý Ngưng Dương đánh với Kim Quang Sứ mà thôi. Đánh nhau một hồi, Đức Lý Ngưng Dương đập Kim Quang Sứ một gậy thì Kim Quang Sứ hóa hào quang đằng vân bay mất. (Trích Con đường TLHS trang 145-146).

     

    Những mẫu chuyện liên quan đến Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung:

    * Thuở sơ khai nền Đạo, Đức Chí Tôn giáng cơ cho Đức Quyền Giáo Tông (QGT) các bài thi:

    Già trí đừng lo trí chẳng già,

    Lương tâm mình biết, hỏi chi xa.

    Thềm đầu Trời ngó lòng nhơn đạo,

    Hư thiệt rồi đây cũng biết mà.

    (11-1-1926)

    Đã thấy ven mây lố mặt dương,

    Cùng nhau xúm xít dẫn lên đường.

    Đạo Cao phó có tay cao độ,

    Gần gũi sau ra vạn dặm trường.

    (12-2-1926)

    Đức Lý Thái Bạch giáng cơ cho Đức QGT 4 câu thi:

    Có công phải biết gắng nên công,

    Tu tánh đã xong tới luyện lòng.

    Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục,

    Đơn tâm khó định lấy chi mong.

    ((27-1-1926)

    * Cũng trong ngày nầy (27-1-1926), có Thất Nương DTC giáng cơ. Đức Quyền Giáo Tông hỏi:

    - Có duyên luyện đạo cùng chăng, xin Em mách giùm.

    - Đã gặp Đạo ắt có duyên phần. Ráng tu luyện, siêng thì thành, biếng thì đọa, liệu lấy mà răn mình. Phải sớm tính, một ngày qua là một ngày chết. Đừng dụ dự. Em xin kiếu.

    * Trong một đàn cơ khác, nhân có Bát Nương DTC giáng đàn, Đức QGT hỏi thăm Bát Nương về linh hồn của thân phụ và thân mẫu của Ngài có được siêu thăng cùng chăng.

    Đức Ngài hỏi Bát Nương:

    Thân phụ và thân mẫu của Qua có được siêu thăng không? Giờ đây đang ở đâu?

    Bát Nương giáng cơ đáp:

    Em chỉ nói bằng thơ, nếu Anh giảng trúng thì nói nữa, trật thì lui.

    Đức Quyền Giáo Tông năn nỉ:

    Nếu Qua nói trật thì nhờ Em thương tình mà chỉ dẫn để cho Qua học thêm với.

    Bạch Y Quan nay sanh Cực Lạc.

    Bá phụ cùng Bá mẫu đặng an.

    Như vậy là thân phụ và thân mẫu của Qua trước ở cõi Bạch Y Quan, nay đã sang ở nơi cõi Cực Lạc?

    Đúng đó, ấy là nhờ công tu luyện của Anh nên Bá phụ và Bá mẫu được siêu thăng nơi Cực Lạc.

    THI VĂN CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG:

    Đức Phạm Hộ Pháp xướng bài thi:

    NHẮN BẠN QUYỀN GIÁO TÔNG

    Hồ lô ai để ở nơi đâu?

    Aí quốc Việt Nam nhét bể bầu.

    Cứu thế hồng ân chưa rải khắp,

    Nâng thuyền lòng nước vốn còn sâu.

    Nhơn tài nẩy nở tuy trăm bụng,

    Dân trí biến sanh bởi một đầu.

    Ví nhướng mắt Tiên xem rõ trận,

    Cuộc cờ thắng bại tận phao câu.

    (11-9-Bính Tuất 1946)

    1. Đức QGT giáng cơ họa vận, ngày 19-9-B.Tuất 1946:

    Tách trần tính lại đã là đâu,

    Thế giới vân du chỉn một bầu.

    Nguồn đạo bấy chừ bao sức lớn,

    Tinh thần từ trước đã gần sâu.

    Nhơn tâm gầy khối đều nên mặt,

    Tình thế trau nên kiểu vở đầu.

    Lừa lọc nên hư do phép Tạo,

    Hưng suy chỉ định bởi đôi câu.

    2. Đức QGT giáng cơ họa tiếp, ngày 28-4-Mậu Tý1948:

    Đường trần hạnh phúc đã là đâu?

    Chi bẵng Càn khôn quảy một bầu.

    Đủ hiểu tâm phàm lòng lạt lẽo,

    Dư xem bước tục chí cao sâu.

    Thiên Quân ví chẳng ra tiền đạo,

    Tướng soái khó toan chiếm địa đầu.

    Vạn pháp đem khoe tài Hộ Pháp,

    Cũng như đực rựa sánh kim câu.

    3. Đêm mùng 10 tháng 10 Canh Dần (dl 19-11-1950).

    QUYỀN GIÁO TÔNG

    Mừng các em,

    Mỗi năm đến kỳ Lễ Hạ Nguơn, kỷ niệm Khai Đạo, thì các em không quên ngày Thánh đán của anh, và mỗi em đều để tâm lo lắng, nhứt là Hộ Pháp cư xử trọn nghĩa đệ huynh, đến như thi hài của anh đối về phần Đạo thì cũng chẳng trọng hệ chi, nhưng đó là một phần trong Thánh Thể của Chí Tôn, các em lo cho anh được châu toàn, anh có lời cảm ơn trước là Hộ Pháp, sau là tất cả các em.

    Một điều anh ước mong sao hành trình của mỗi em làm thế nào cho đoàn hậu tấn để tâm kính mến lo cho các em, cũng như các em lo cho anh từ thử. Còn cơ Đạo của Chí Tôn, bước qua năm 26 sẽ phát triển lên cao thượng một cách phi thường, làm cho dân tộc VN đều ngạc nhiên và chủ tâm hưởng ứng.

    Nền Đạo cao lên bao nhiêu thì danh thể của các em tăng tiến lên trọng yếu, và trách nhậm phải thế nào? Các em cần lo trau giồi cho đáng giá, để làm gương mẫu hướng dẫn quần chúng noi bước theo con đường đạo đức và lập quốc buổi tương lai đã đến đây.

    Trong phương diện hành đạo, có 3 điều nên chú ý như sau nầy, các em khá nhớ: - Một là Quyền. - Hai là Luật, - Ba là Pháp, đều của Đức Chí Tôn vậy.

    · Quyền là giáo hóa, dìu dẫn chúng sanh vào khuôn linh của Đạo.

    · Luật là thương yêu, rộng dung, tha thứ cho kẻ lỗi biết ăn năn.

    · Pháp là giữ công bình chánh trực.

    Nếu có kẻ không nghe lời giáo hóa, cố tâm phạm luật, thì người cầm quyền cai trị lấy Thánh đức mà định hình phạt là cốt yếu cạo gọt cho nên hình người, chớ không phải kẻ cầm quyền mà để phạm vào tội ác bất nhơn, bởi Đạo quyền là Thánh trị, chớ không phải Phàm trị, các em nên nhớ.

    Còn Cơ đời sẽ biến chuyển cho đến ngày liễu kết cuộc chiến tranh hầu có lập lại đời Thánh đức. Đạo và Đời, Quốc và Cộng, như sau nầy:

    THI:

    Họa lại bài thi của Hộ Pháp, đảo vận:

    Lưỡi liềm chi dễ sánh Kim câu,

    Gây sự bởi ai tạo buổi đầu?

    Đông hải mênh mông còn phải cạn,

    Tây hồ chật hẹp độ bao sâu?

    Tài ba Động Bích bao nhiêu sức,

    Quyền phép Côn Lôn sẵn mấy bầu.

    Quyết đoán cuộc cờ, ai thắng bại,

    Chỉn xem Tiên Phật hướng về đâu?

    Anh mừng các em, xin nhắn lời cám ơn Hộ Pháp. THĂNG.

    BQÐ: Bát Quái Ðài.

    HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

    CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

    TLHS: Thiêng Liêng Hằng Sống.

    CLTG: Cực Lạc Thế giới.

    CKVT: Càn Khôn Vũ Trụ.

    DTC: Diêu Trì Cung.

     

  • Quyền huynh thế phụ

    權兄替父

    Quyền: quyền hành. Huynh: anh. Thế: thay thế. Phụ: cha.

    Quyền huynh thế phụ là cái quyền hành của anh là thay thế cho cha khi cha mất để lo cho các em.

     

  • Quyền năng

    權能

    A: Power.

    P: Pouvoir.

    Quyền: quyền hành. Năng: cái khả năng làm được công việc.

    1. Quyền năng là khả năng thi hành quyền lực của mình.

    TNHT: Con sẽ trọng đại và đủ quyền năng do Thiên ý.

    2. Quyền năng là những phép thần thông do tu luyện mà có được.

    Chư Thánh, Tiên, Phật đều có những quyền năng đặc biệt như: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, v.v... nhưng các Đấng ấy tránh phô trương vì sợ dân chúng bị mê hoặc.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quyền Thống Nhứt

    權統一

    A: The unified power.

    P: Le pouvoir unifié.

    Quyền: quyền hành. Thống nhứt: gom vào một mối.

    Quyền Thống Nhứt là hai quyền Hành chánh và Tư pháp gom về một mối do một người nắm giữ.

    Trong Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn lập CTĐ cầm quyền Hành Chánh Đạo do Đức Giáo Tông chưởng quản và lập HTĐ cầm quyền Tư Pháp Đạo do Đức Hộ Pháp chưởng quản. Trong trường hợp đặc biệt, hai quyền nầy tập trung vào một người nắm giữ thì gọi là Quyền Thống Nhứt.

    Như vậy, Quyền Thống Nhứt là Quyền Chí Tôn tại thế.

    Bởi vì Quyền Thống Nhứt là quyền của Đức Chí Tôn. Đức Chí Tôn phân quyền ấy ra làm hai: một nửa giao cho Đức Giáo Tông CTĐ, một nửa giao cho Đức Hộ Pháp HTĐ. Cho nên Đức Giáo Tông và Đức Hộ Pháp hiệp lại ra lịnh chi, thì lịnh đó có giá trị như là lịnh của Đức Chí Tôn.

    Sau khi Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung qui Thiên, nền Đạo chinh nghiêng. Ở bên ngoài thì nhà cầm quyền Pháp tìm cách đàn áp, bên trong nội bộ thì các Chức sắc bất hòa, công kích nhau, rồi tách riêng ra lập Chi phái, chống đối Tòa Thánh. Để đối phó với tình thế khó khăn nầy, Đức Lý Giáo Tông giao quyền Giáo Tông tại thế cho Đức Phạm Hộ Pháp, để Đức Hộ Pháp có đủ oai quyền điều khiển toàn Hội Thánh CTĐ, HTĐ và Phước Thiện.

    Trong Đạo Luật năm Mậu Dần (1938), Đại Hội Hội Thánh họp giao quyền Thống Nhứt cho Đức Phạm Hộ Pháp, xin trích ra sau đây:

    LUẬT: Toàn đạo nam nữ đồng công nhận và tín nhiệm Quyền Thống Nhứt của Đức Hộ Pháp cho đến ngày có Giáo Tông ra mặt.

    PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH:

    1. Trong mấy năm vừa qua, nền đạo nhờ nương dưới Quyền Thống Nhứt của Đức Hộ Pháp mà đặng thạnh hành phát đạt một cách mau chóng, trên Hội Thánh đủ oai quyền vững đạt, dưới chúng sanh đặng đầy đủ tinh thần nghị lực mà thật hành chủ nghĩa cao thượng của Đức Chí Tôn

    Vậy từ đây, toàn đạo nam nữ nên để cả đức tin nơi Ngài hầu đủ phương pháp tạo đời sửa thế.

    LUẬT: Toàn đạo nam nữ giao quyền Chánh Trị Đạo cho Quyền Thống Nhứt cầm cho đến ngày có Đầu Sư nam nữ chánh vị.

    PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH:

    1. Theo Pháp Chánh Truyền thì quyền Chánh Trị Đạo là đặc quyền của Đầu Sư, nhưng hiện thời bên CTĐ phẩm vị Đầu Sư không có, còn Quyền Vạn Linh thì không đủ sức, vì thiếu bậc tài ba đạo đức, nên để cho Quyền Thống Nhứt đủ năng lực đặng lập thành quyền đạo đối với quyền đời, đương nhiên cùng các nền tôn giáo. Ấy là cái hay làm cho Đạo ra thiệt tướng.

    Ngày 1-12-Quí Tỵ (dl 5-1-1954), Đức Lý giáng cơ nói với Đức Phạm Hộ Pháp:

    " - Hiền hữu có nghĩ tại sao Lão phải dâng quyền Giáo Tông cho Hiền hữu đặng có trọn quyền Chí Tôn hữu hình tại thế chăng?

    Hộ Pháp bạch: - Xin Ngài dạy rõ.

    - Thì cũng do lòng từ bi vô tận của Đại Từ Phụ. Người sợ oai của Lão vì cầm quyền thiêng liêng mối đạo quá chấp nê phàm tánh, không dung thứ tội tình cho con cái của Người, nên giao cho Hiền hữu, là bạn đồng sanh, biết đau đớn, biết khổ cực với mảnh thi phàm mà rộng dung cho họ. Cười...

    Quyền Chí Tôn trong tay Hiền hữu thì cứ tự dụng, định vị cho Thánh thể của Người. Lão chẳng nên can thiệp vào đó.

    Nầy Hiền hữu, Lão nói thử, Hiền hữu nghĩ coi có lẽ nào Lão cầm cơ thăng vị cho những người như: Kiên, Chấn, Thạch, Dược. Cười... Hiền hữu tự mình định liệu lấy, nếu cần thì phò loan nơi Giáo Tông Đường, Lão sẽ đến bàn luận. Lão xin kiếu."

    Theo Pháp Chánh Truyền, Quyền Thống Nhứt giao cho 3 vị Đầu Sư khi nền Đạo gặp cơn nguy biến. (Phải có đủ 3 vị Đầu Sư ba phái mới lãnh được Quyền Thống Nhứt, thiếu một vị cũng không được).

    "QUYỀN THỐNG NHỨT: Khi Minh Thệ rồi, Đầu Sư đặng cầm quyền luôn cả Chánh trị và Luật lệ.

    Nhờ quyền lớn lao nầy, Đầu Sư sẽ có đủ thế lực mà ngăn ngừa Tà quyền hại đạo. Thảng gặp cơn nguy biến mà cả ba Chánh Phối Sư không đủ sức chống ngăn, thì Đầu Sư đặng dùng Quyền Thống Nhứt ấy mà điều khiển Hội Thánh. Cả Chức sắc CTĐ và HTĐ phải phục mạng, dầu cho Giáo Tông và Hộ Pháp cũng phải vậy." (Hay!)

    HTÐ: Hiệp Thiên Ðài.

    CTÐ: Cửu Trùng Ðài.

     

  • Quyền Vạn linh

    權萬靈

    Vạn linh: toàn thể các chơn linh trong CKVT, gồm đủ Bát phẩm chơn hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn.

    Đức Chí Tôn sanh ra vạn vật, nên có nói: "Thầy là các con, các con là Thầy."

    Các con của Thầy là Vạn linh, nên Đức Chí Tôn ban cho Vạn linh đồng quyền cùng Thầy.

    Muốn lập Quyền Vạn linh thì phải lập 3 Hội:

    · Hội Nhơn Sanh: đại diện 4 phẩm chơn hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn và Nhơn hồn.

    · Hội Thánh: đại diện Thánh hồn.

    · Thượng Hội: đại diện cho Tiên Hồn và Phật hồn.

    Những quyết nghị của Hội Nhơn Sanh được dâng lên Hội Thánh, quyết nghị của Hội Thánh được dâng lên Thượng Hội. Khi Thượng Hội đồng ý thì quyết nghị đó là của Vạn linh, trở thành Quyền Vạn linh. (Xem chi tiết nơi chữ: Hội Quyền Vạn linh, vần H)

     

  • Quyến luyến hồng trần

    眷戀紅塵

    Quyến: yêu mến. Luyến: vấn vương. Hồng: đỏ. Trần: bụi. Hồng trần là bụi đỏ, chỉ cõi trần.

    Quyến luyến là thương yêu quấn quít, không chịu rời.

    Quyến luyến hồng trần là yêu mến, không muốn rời cõi trần.

    TNHT: Nếu các con biết đạo thì hiệp nhau về Tòa Thánh mà chung lo cho xong, đừng quyến luyến hồng trần nữa.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • QUYẾT

    QUYẾT: 決 Xét đoán, nhứt định, dứt khoát.

    Td: Quyết đoán, Quyết nghị.

     

  • Quyết đoán

    決斷

    A: To decide.

    P: Décider.

    Quyết: Xét đoán, nhứt định, dứt khoát. Đoán: định chắc.

    Quyết đoán là phán xét một cách chắc chắn.

    CG PCT: Thảng có một người trong ba mà tuân mạng lịnh đặng thì cũng chưa quyết đoán rằng luật lệ ấy đã nghịch hẳn nhơn sanh.

    CG PCT: Chú Giải Pháp Chánh Truyền.

     

  • Quyết nghị

    決議

    A: To take a deliberation.

    P: Prendre une délibération.

    Quyết: Xét đoán, nhứt định, dứt khoát. Nghị: bàn luận, bàn cãi.

    Quyết nghị là bàn luận đưa ra nhiều ý kiến rồi bỏ thăm để chọn ý kiến nào được đa số đồng ý.

     

  • Quyết sách vận trù

    決策運籌

    Quyết: Xét đoán, nhứt định, dứt khoát. Sách: kế hoạch, sách lược. Vận: vận động. Trù: tính toán sắp đặt. Vận trù là vận động sắp đặt.

    Quyết sách vận trù là quyết định kế hoạch và sắp đặt các việc.

    PMCK: Qui Thiên lương quyết sách vận trù.

    PMCK: Phật Mẫu Chơn Kinh.

     

  • Quyết thắng

    決勝

    A: To be determined to win.

    P: Décider à vaincre.

    Quyết: Xét đoán, nhứt định, dứt khoát. Thắng: được phần hơn.

    Quyết thắng là nhứt định phải thắng, không để thua.

    TNHT: Đặng quyết thắng chúng sanh trong kỳ khai đạo nầy.

    TNHT: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.

     

  • Quyệt ngữ

    譎語

    A: The cunning speech.

    P: La parole fourbe.

    Quyệt: dối trá, giỏi thay đổi. Ngữ: lời nói.

    Quyệt ngữ là lời nói gian dối để lừa gạt người.

    KSH: Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại.

    KSH: Kinh Sám Hối.